TRÍCH LẠI ĐẦY ĐỦ ĐỂ RÕ THÊM BẢN CHẤT
Trong một số pho sách thuộc dạng văn hóa cổ có thể lấy nó làm căn bản hay chỗ dựa cho mọi suy luận hoặc suy đoán, chứ không thể suy đoán tùy tiện từ một vài thông tin sô bồ, không đầy đủ tính minh chứng, có một thông tin khá đồng bộ mà mọi người có thể cảm nhận được đó là: Khi luận bàn về khí, một yêu cầu được đặt ra: người ta phải định dạng được khí cả về tính và về lượng, cùng với quy luật phát sinh, phát triển và tự vong của nó, và điều này người xưa đã làm được.
Trong qua trình kiểm nghiệm thực tiễn có kết quả, người xưa đã đúc kết lại thành sách để lưu giữ và truyền thụ về sau mới có cái để chúng ta đọc, và người xưa họ cũng đã làm được điều này. Tính hệ thống của mảng văn hóa họ để lại đáng để chúng ta kế thừa và phát triển. Hoặc là chúng ta phát triển đúng hướng, hoặc là chúng ta phát triển lệch lạc.
Một câu hỏi nghiêm túc cần đặt ra: cái mà một số người tưởng là ta đang phát kiến kia, người xưa họ không biết gì hay họ né tránh không muốn để lại thông tin đó với một nguyên do nào đó chăng, và tôi nghiêng về xu hướng thứ hai: Họ không muốn nói rõ về thông tin đó chứ không phải họ không biết, tôi cho rằng họ là những bậc kỳ tài mà chỉ ở thời điểm đó trời đất đã sinh ra họ để họ làm điều đó. Thử hỏi, chúng ta với trang thiết bị hiện đại và với nguồn tư liệu lớn tới mức nếu chỉ ngồi đọc thì nhiều đời sau còn chưa xong, nên chúng ta đừng ai vội vã đưa ra những suy tưởng thiếu chín chắn ?
Hệ thống sách cổ về học thuyết Âm Dương ngũ hành để lại hai hình đồ, đó là hệ thống sắp xếp phân bổ khí Hà đồ, nó mang tính phổ cập, Hà đồ - một quỹ tích bài liệt khí tiên thiên, và Lạc thư với hai biểu sắp xếp phân bổ khí hậu thiên theo hai chiều thuận nghịch mà chúng ta vẫn ứng dụng [không có sách nào lưu truyền như vậy]. Trong quá trình mô tả, diễn giải sự biến hóa của khí, họ đã dấu đi một nửa phát kiến của họ, nhưng họ vẫn để lại một manh mối cho ta lần tìm và phát triển. Đó là những câu: Hỏa tiên thiên và Hỏa hậu thiên, Kim tiên thiên và Kim hậu thiên. Và học thuyết âm dương ngũ hành của người xưa nổi tiếng là ở quy tắc sinh khắc chế hóa của ngũ hành. Nó được ứng dụng mọi lúc mọi nơi cho mọi sự việc trên hành tinh này.
Khi người ta đặt (1-6) ở Khảm (thủy) theo chiều thuận kim đồng hồ thì sinh (3-8) ở Chấn (mộc) tiếp tục sinh (4-9) ở Ly (hỏa); tuần tự sinh (5-10) ở Trung cung (thổ): sinh (2-7) ở Đoài (kim); khép kín sinh (1-6) ở Khảm (thủy) [đổi chỗ các số trong hà đồ 7-2 và 9-4,
7-2 LÀ HỎA THÌ GỌI LÀ KIM, 9-4 KIM THÌ GỌI LÀ HỎA, rồi đem ghép vào Bát quái Hậu thiên]. Đó là thuận và khép kín một vòng sinh, còn vòng khắc thì sao, có sinh thì phải có khắc.
Vẫn khởi đầu từ (1-6) ở Khảm (thủy) [bắt đầu ghép lạc thư không đổi chỗ vào Bát quái Hậu thiên], khắc thủy phải là thổ,
(5- 10) thổ ở trung cung khắc thủy (1-6) ở Khảm, trật tự đồ hình trên được giữ nguyên; khắc thổ là mộc,
(3-8) mộc ở Chấn khắc thổ (5-10) trung cung theo vòng, trật tự đồ hình trên vẫn được giữ nguyên, khắc mộc (3-8) chỉ có thể là kim (2-7) nhưng kim (2-7) nó lại nằm ở Đoài, không lý gì nó khắc xuyên (5-10) thổ ở trung cung, (nếu nó thấu trung cung thì nó Hợp thổ trung cung mà được sinh), và vì vậy người ta đành chuyền (2-7) kim vốn Đoài ở tới Ly vậy,
(2-7) kim ở Ly (lúc này) khắc (3-8) mộc ở Chấn, theo vòng và thuận lý, không có gì để nghi ngờ nữa (4-9) bị (2-7) chiếm mất chỗ nên phải về thế chỗ còn lại ở Đoài,
hỏa (4-9) lúc này ở Đoài khắc (2-7) kim ở Ly. Khép kín vòng khắc là thủy (1-6) ở khảm khắc hỏa (4-9) ở đoài.
[Tóm tắt lại nhé, hình bên trái 5-10 thổ khắc 1-6 thủy, 1-6 thủy khắc 4-9 hỏa, 4-9 hỏa khắc 2-7 kim, 2-7 kim khắc 3-8 mộc, 3-8 mộc khắc 5-10 thổ.
TỨC LÀ KHÔNG ĐỔI CHỖ NỮA NHƯNG TIẾP TỤC,
7-2 LÀ HỎA THÌ GỌI LÀ KIM, 9-4 KIM THÌ GỌI LÀ HỎA]
Mô tả như hai hình dưới.