kilantu84
Moderator
Học thuyết ngũ hành là một trong những học thuyết cơ bản của y học cổ truyền, trên lâm sàng, quan hệ tương sinh tương khắc của ngũ hành được vận dụng để giải thích mối quan hệ tương hỗ của các tạng trong cơ thể và những biến hóa phức tạp về sinh lý bệnh lý của các tạng, dựa vào những hiện tượng bình thường và bất thường để chuẩn đoán và đề ra phương pháp điều trị.
Trong điều trị bệnh phải chú ý tới 2 khía cạnh.
1. Phải lấy nội tạng làm cơ sở, nếu tách rời thực tế hoạt động của nội tạng với việc bàn luận về học thuyết ngũ hành sẽ bị lạc hướng.
2. Phải căn cứ vào sự phát triển của nguyên nhân bệnh và bệnh tình mà đề ra pháp điều trị. Biện chứng luận trị theo học thuyết ngũ hành.
Khi vận dụng học thuyết ngũ hành vào thực tế lâm sàng, không nên tách rời chỉ bàn tới ngũ hành mà không bàn tới tạng phủ vì y học cổ truyền đã gắn liền ngũ hành với các tạng phủ (tâm – hỏa, can – mộc, tỳ - thổ, thận – thủy, phế - kim). Nguyên nhân phát bệnh của nội tạng khác nhau, nếu tách rời bản chất và sự biến hóa bệnh tật của nội tạng là trái với quy luật sinh khắc của ngũ hành. Các tạng trong cơ thể có bản năng điều chỉnh khác nhau, biểu hiện thành những quy luật tương y tương tồn, tương phản, tương thành, duy trì những hoạt động bình thường. Ngược lại nếu sinh mà không sinh, được khắc mà không khắc hoặc tương sinh bất cập, tương khắc thái quá sẽ làm cho các hiện tượng sinh lý bị rối loạn đều gây nên bệnh.
** Phương pháp vận dụng
1. Bổ mẹ “hư thì bổ mẹ” (tương sinh bất cập): ví như thận hư làm cho can hư gọi là thủy bất sinh mộc thì phải tự thận làm chủ hoặc như can hư làm cho thận hư gọi là con đoạt khí của mẹ (tử bệnh cập mẫu) thì phải bổ can đồng thời cũng phải bổ thận. Đây là trương hợp hư chứng phải dựa vào quan hệ mẫu tử để điều trị gọi là “Hư tắc bổ kỳ mẫu”
2. Tả con: thực chứng của quan hệ mẫu tử. Như can hỏa vượng có thăng không có giáng, phải dùng phương pháp tả tâm hỏa gọi là “Thực tất tả kỳ tử”
3. Ức cường (dùng với tương khắc thái quá): như can khí hoành nghịch gọi là mộc khắc thổ thì dùng bình can, sơ can làm chủ, cũng có khí mộc không khắc được thổ bị thổ phản khắc lại gọi là tương vũ như tỳ vị ủng trệ ảnh hướng đến điều đạt của can khí, cần phải vận tỳ hòa vị làm chủ.
4. Phù nhược (dùng cho tương khắc bất cập): như can hư uất trệ ảnh hưởng đến sự kiện vận của tỳ vị gọi là “Mộc bất sơ thổ” thì phải điều trị can là chính và kèm theo kiện tỳ để làm cho cơ năng của 2 tạng tăng lên.
Quan hệ sinh khắc là hai vấn đề, tromg điều trị cần phải xem xét cả hai mặt, phải phân biệt được mặt nào là chủ yếu, ví như quan hệ tương sinh là quan hệ mẫu tử, thường chỉ chú trọng đến mẹ, ít chú ý tới con, hay như trong quan hệ tương khắc chỉ chú trọng đến tạng được khắc không chú ý đến tạng bị khắc đều là không toàn diện. Ví dụ như: thủy bất sinh mộc, dùng tư thận dưỡng can, hay Mộc hoành khắc thổ dùng sơ can kiện tỳ và bình can hòa vị. Trong tứ dưỡng can thận nếu như thủy bất sinh mộc tất phải tư dưỡng thận làm chủ, trong trường hợp con bị bệnh làm cho mẹ bị bệnh tất dưỡng can làm chủ đồng thời với sơ can kiện tỳ, bình hòa can vị, nếu do mộc hoành khắc thổ thì phải sơ can hình can làm chủ, thổ phản vũ mộc thì phải kiện tỳ hòa vị làm chủ.
(còn tiếp)
Trong điều trị bệnh phải chú ý tới 2 khía cạnh.
1. Phải lấy nội tạng làm cơ sở, nếu tách rời thực tế hoạt động của nội tạng với việc bàn luận về học thuyết ngũ hành sẽ bị lạc hướng.
2. Phải căn cứ vào sự phát triển của nguyên nhân bệnh và bệnh tình mà đề ra pháp điều trị. Biện chứng luận trị theo học thuyết ngũ hành.
Khi vận dụng học thuyết ngũ hành vào thực tế lâm sàng, không nên tách rời chỉ bàn tới ngũ hành mà không bàn tới tạng phủ vì y học cổ truyền đã gắn liền ngũ hành với các tạng phủ (tâm – hỏa, can – mộc, tỳ - thổ, thận – thủy, phế - kim). Nguyên nhân phát bệnh của nội tạng khác nhau, nếu tách rời bản chất và sự biến hóa bệnh tật của nội tạng là trái với quy luật sinh khắc của ngũ hành. Các tạng trong cơ thể có bản năng điều chỉnh khác nhau, biểu hiện thành những quy luật tương y tương tồn, tương phản, tương thành, duy trì những hoạt động bình thường. Ngược lại nếu sinh mà không sinh, được khắc mà không khắc hoặc tương sinh bất cập, tương khắc thái quá sẽ làm cho các hiện tượng sinh lý bị rối loạn đều gây nên bệnh.
** Phương pháp vận dụng
1. Bổ mẹ “hư thì bổ mẹ” (tương sinh bất cập): ví như thận hư làm cho can hư gọi là thủy bất sinh mộc thì phải tự thận làm chủ hoặc như can hư làm cho thận hư gọi là con đoạt khí của mẹ (tử bệnh cập mẫu) thì phải bổ can đồng thời cũng phải bổ thận. Đây là trương hợp hư chứng phải dựa vào quan hệ mẫu tử để điều trị gọi là “Hư tắc bổ kỳ mẫu”
2. Tả con: thực chứng của quan hệ mẫu tử. Như can hỏa vượng có thăng không có giáng, phải dùng phương pháp tả tâm hỏa gọi là “Thực tất tả kỳ tử”
3. Ức cường (dùng với tương khắc thái quá): như can khí hoành nghịch gọi là mộc khắc thổ thì dùng bình can, sơ can làm chủ, cũng có khí mộc không khắc được thổ bị thổ phản khắc lại gọi là tương vũ như tỳ vị ủng trệ ảnh hướng đến điều đạt của can khí, cần phải vận tỳ hòa vị làm chủ.
4. Phù nhược (dùng cho tương khắc bất cập): như can hư uất trệ ảnh hưởng đến sự kiện vận của tỳ vị gọi là “Mộc bất sơ thổ” thì phải điều trị can là chính và kèm theo kiện tỳ để làm cho cơ năng của 2 tạng tăng lên.
Quan hệ sinh khắc là hai vấn đề, tromg điều trị cần phải xem xét cả hai mặt, phải phân biệt được mặt nào là chủ yếu, ví như quan hệ tương sinh là quan hệ mẫu tử, thường chỉ chú trọng đến mẹ, ít chú ý tới con, hay như trong quan hệ tương khắc chỉ chú trọng đến tạng được khắc không chú ý đến tạng bị khắc đều là không toàn diện. Ví dụ như: thủy bất sinh mộc, dùng tư thận dưỡng can, hay Mộc hoành khắc thổ dùng sơ can kiện tỳ và bình can hòa vị. Trong tứ dưỡng can thận nếu như thủy bất sinh mộc tất phải tư dưỡng thận làm chủ, trong trường hợp con bị bệnh làm cho mẹ bị bệnh tất dưỡng can làm chủ đồng thời với sơ can kiện tỳ, bình hòa can vị, nếu do mộc hoành khắc thổ thì phải sơ can hình can làm chủ, thổ phản vũ mộc thì phải kiện tỳ hòa vị làm chủ.
(còn tiếp)