4. BẠN Ở CÙNG PHỐ
Hà nội có nhiều loại phố. Có phố ven hồ, có phố gần sông. Có phố sáng choang mới, có phố rêu phong cũ. Hoặc ngắn hoặc dài, thong thả ồn ào khác nhau. Theo dọc thời gian của từng phố, cây trồng ở ngoài vỉe hè cũng khác nhau, người già ở sâu trong nhà lại càng khác nhau. Có điều, đám trẻ đang lao nhao mới lớn thì từa tựa giống nhau. Con trai mắt thì trầm sang, nửa như tò mò muốn biết nửa như lọc lõi đã biết. Con gái thì dong dỏng thanh thoát, nhiều đứa loay hoay rất xinh, mới tuổi phổ thông đã khát khao nhìn đời, chưa kịp hư bởi cái chất phố phường kiêu sa khinh bạc. Tất cả đám mang vẻ ngây thơ ấy, ở cấp một cấp hai, rồi một phần nào đó ở cấp ba, vẫn ngồi học chung một lớp với nhau. Thế nhưng khi đã dạn dĩ trưởng thành thì bỗng dưng để tuột rơi mất nhau, hiếm hoi lắm mới có người giữ được bạn cùng phố.
Bạn ở cùng phố hầu như không có khác giới. Hoặc lộc ngộc nghịch ngợm bốn năm đứa con giai, hoặc dịu dàng thầm thì vài ba đứa con gái. Tuyệt đối hiếm những cặp cùng phố yêu nhau và nhỡ có thì rất khó lấy nhau. Đã hôn nhân là vòng vèo cách quận, nó khác hẳn truyền thống quấn quýt ở quê “Lấy chồng giữa làng chứ không lấy người sang thiên hạ”. Gái làng là sở hữu của trai làng, được gìn giữ nâng niu bảo vệ gần gần giống mái đình cây đa giếng nước. Ở phóng khoáng của phố, cái kiểu “nhà nàng ở cạnh nhà tôi” rồi nhờ hương bưởi đưa thầm ái tình qua cửa sổ thì duy nhất chỉ thấy xa xa vùng ngoại ô, nơi mà chừng già hai chục năm trước người ta không gọi là phố mà gọi là đường. Ví như đường Yên Phụ, đường Thuỵ Khuê, đường Cầu Giấy chẳng hạn. Đường tàu điện chạy tới đó không chìm xuông mặt nhựa mịn nữa mà chằn chặn nổi lên cả đám tà vẹt, giống như đường tàu hoả chạy ngang qua ruộng. Gần đây, loanh quanh ba mươi sáu phố phường cũng có việc ở sát nhà nhau rồi trong trắng lấy nhau, nhưng thường là hàng xóm mới chuyển đến và cái nhà mới chuyển đến đấy vĩnh viễn phải là nhà gái. Tại sao lại vậy, có người thắc mắc hỏi một nhà Hà Nội học, ông này uyên bác chưa kịp trả lời, ông còn bận chạy đi hoà giải bà vợ ông đang cãi nhau với cái bà cũng Hà Nội gốc ở tầng hai về chuyện cơi cái ban công cũ thời tây thành toilet xịn thời nay.
Vài người có vẻ từng trải lại từng có học, thâm thúy nói, phố của Hà Nội vẫn đậm chất làng. Câu này ở ngày xưa thì đương nhiên đúng nhưng ở bây giờ thì chưa chắc. Làng quên Việt là thanh bình là ổn định, nó níu giữ sự bất biến bằng thoai thoải xanh cỏ triền đê, bằng mênh mông lúa vàng đồng gió. Trời thì vừa rộng vừa cao và mây thì nhiều khi rất trắng. Nếu có thay đổi nào đấy thì cũng vô cùng chầm chậm, thậm chí không bao giờ chịu khác. Một người tha hương xa quê lâu năm quay về tìm bạn cũ, đã thật đúng khi xúc động viết “Con đường hàng tỉnh người đi. Ba mươi năm ấy có gì khác xưa. Ông lão dắt trâu đi bừa. Là con ông lão ngày xưa đi cày”. Nhịp điệu sống của phố nóng hơn, năng nổ hơn, biến động hơn và vì thế đôi khi có lổn nhổn nhiều bạc bẽo. Có phải vậy chăng mà văn học đương đại ở ta đã rất nhiều bài thơ rất nhiều truyện ngắn mô tả tuyệt vời tình bạn cùng thôn nhưng chưa có một ai viết thật hay về tình bạn cùng phố.
Để cuộc sống bơn bớt vô nghĩa, bình thường con người ta hay có bạn. Nó tuyệt vời như có người yêu, ngang bằng như có con, đôi khi còn hơn cả anh chị em ruột. Và bạn ở cùng phố bắt buộc phải chơi với nhau từ hồi còn bé. Lúc đã lớn, đã nhanh nhẹn đã hoạt bát đã ngấm đẫm cái tinh ranh của đô thị thì làm sao có thể kết bạn được nữa. Tình bạn giống như đọc sách, điều kiện đầu tiên là phải điềm đạm thong thả, sau đó phải được che đỡ từ vất vả thời gian. Hồi bao cấp, ở ngoài đường trẻ con vui chơi dường như đông hơn, bởi lúc ấy trong nhà chưa có vớ vẩn gameshow trên tivi, chưa có game online trên “nét”. Bọn trẻ sẽ chơi trốn tìm chơi đuổi bắt chơi nhảy ngựa, những trò chơi bần bạch hoang dã hồn nhiên mà khi thấm mệt bao giờ cũng vô tư thăng hoa ra vài người bạn. Nó không bị vẩn đục bằng việc dung tục đem giải thưởng ra dử, những sẽ là triệu phú, những sẽ là giàu không hề khó. Đám trẻ 8x và 9x bây giờ hình như bất hạnh hơn, khi trống vắng đơn côi mệt mỏi đi kiếm bạn đã thỉnh thoảng tuyệt vọng lạc vào chốn vũ trường cố bày đoàn tìm qua thuốc lắc.
Đã là bạn, thì dù xuất xứ ở đâu cũng đều cao cả, trân trọng hiếm quý, nhưng bạn ở cùng phố luôn là nỗi xúc cảm nao nao đọng đầy. Để rồi có lần đi ngang qua phố nhỏ của mùa hè năm nay không hiểu sao mất mùa hoa phượng, bỗng thấy một cặp tuổi teen đang giành nhau trò chơi điện tử cầm tay, chợt âm ẩm ứa nhói nhớ về cái lần ăn chung một que kem tham lam cắn vào tay bạn.
Và người bạn ấy cũng đã dời phố đi xa, chắc vẫn mang theo cả vết răng tuổi thơ li ti sắc trong veo như là nước mắt.
[HR][/HR]
5. BÁN VĂN NGÀY TẾT
Chuyện bán văn là chuyện của muôn năm ngày thường, không có gì là đặc biệt trầm trọng, chỉ những người trong trắng ngơ ngác bỡ ngỡ nhập môn mới coi đấy là vấn đề, còn hầu hết những tay viết đã thành danh và thành thạo thì coi là sự phải lẽ đương nhiên. Bán được nhiều văn cũng chưa hẳn chuyên nghiệp, bán được ít văn cũng chưa hẳn nghiệp dư, nghề văn khác nghề khác ở chỗ, thâm niên lời lỗ thành bại được tính theo tương giao hoạ phúc chia sẻ giữa vất vả người viết và chân thành người đọc. Thế nhưng giống như nhiều nghề có mua có bán, văn chương hiển nhiên cũng có thời vụ. Ngoài một số thời của người cho, ví như công ty chẵn mười năm, thành phố chẵn ngàn tuổi, thì có thời của trời cho, đấy là vụ tết. Theo thông lệ lâu năm của báo chí Việt (một đầu mua chính danh chính đáng và kha khá chính xác vào loại nhất của văn chương) thường nhân dịp Nguyên đán tân niên là lúc báo chí tấp nập in ra những nô nức giai phẩm. Nó hao hao văn hoá ẩm thực truyền thống, giống hệt các mâm cỗ Xuân. Có nấu có xào có hầm, có rau ngăn ngắt xanh có thịt doi dói đỏ. Vì thế ngoài long lanh mỹ nhân cao đạo anh hung tráng lệ hiệp khách, luôn có dăm bảy trang dành cho đám văn vẻ. Nếu giá cả không lạm phát thì miễn cưỡng kể cũng là được.
Ngày tết, người viết văn bán được giá vào loại kỷ lục, tương truyền là “ca” của đại giang hồ thi sĩ Nguyễn Bính. “Xuân năm 1941, ông Tế Xuyên Hoàng Hữu Tiếp đặt Nguyễn Bính làm thơ cho báo mình. Mặc cả mãi là một đồng một câu. Bính thấy Tế Xuyên cò kè hà tiện, mới nghĩ cách chơi lại một vố. Bính làm bài thơ dài 40 câu, đến sát ngày in mới đưa ra. Trong bài thơ có dòng “Làm thơ đem bán cho thiên hạ, thiên hạ đem thơ đọ với tiền”. Tế Xuyên đề nghị sửa câu đó. Bính đồng ý nhưng đòi giá gấp đôi. Bí quá chủ bút đành nhận lời, Bính sửa “Xót xa một buổi soi gương cũ. Thấy lệch bao nhiêu mặt chữ điền”. Chủ báo trả bài thơ là 80 đồng”. (Thơ và giai thoại Nguyễn Bính – NXB Lao động 1999 – trang 34, 35). Ông Nguyễn Bính nổi tiếng là người tiêu ngông, nên đạo đức thương mại ở ông hơi bị vô tư quá, chứ ai lại nỡ cư xử với đối tác mình như thế.
Thế nhưng trong lịch sử bán văn Việt, trường hợp của ông Lê Ngô Cát (1827 – 1876) còn “khủng” hơn nhiều. Ông Cát tự là Bá Hanh người Chương Đức (Hà Tây). Ông đỗ cử nhâm làm án sát Cao Bằng rồi được đầu tư sáng tác chiều sâu, triệu về Kinh dự vào việc hiệu đính “Đại Nam quốc sử diễn ca”. Vua Tự Đức vốn trọng nam khinh nữ, đọc bản thảo của ông có câu “Vú dài ba thước dắt lưng. Cưỡi voi đánh trống trong rừng kéo ra. Cũng toan gánh vác sơn hà. Cho Ngô biết mặt đàn bà nước Nam” thì vừa phục vừa chê nhưng vẫn ban thưởng một tấm lụa quý và hai đồng vàng. Ông Cát nổi máu nghệ sỹ có tự trào cảm than “Vua khen thằng Cát có tài. Ban cho cái khố với hai đồng tiền”. Lời đồn đến tai vua, ông bị biếm chức giáng thành thường dân. Hỡi ôi, buôn vụng bán ngu như thế nên văn nhân có nghèo thì đâu phải ở số hay mệnh giời.
Lao động nhà văn vốn dĩ khổ hơn đi cày, điều này cả thiên hạ mang máng đều biết. Cày xong rồi rụt dè đem sản phẩm đi bán, lúc lĩnh tiền không hiểu sao vẫn thấy như là bắt được nghẹn ngào xúc động đến vô cùng. Chẳng kể gì tay mơ mà ngay cả đám già đời hàng nghìn lần lĩnh nhuận bút, lần nào lần nấy tâm trạng vẫn trọn vẹn xốn xang như đến chỗ hẹn của tình yêu đầu. Cây bên đường sao mà xanh thế, người đi cùng chiều sao mà đẹp thế. Khép nép ký nhận, le lé bụng bỗng bồi hồi náo nức. Đi xuống cầu thang hai tay khép chặt dọc đùi, chỉ sợ khẽ giang ra là bay bổng như chim. Hồi hộp đến ngã tư có văng vắng gió, rón rén mở phong bì thầm thì đếm. Bình tĩnh lên xe phấn khởi, mồm miệng tự dưng há ra tủm tỉm cười rất khó ngậm lại. Lâng lâng lẫn lộn đi vào đường ngược chiều, hai viên cảnh sát đã đứng xuống vỉa hè sẵn sàng giơ tay vẫy, chắc nhận thấy vẻ hạnh phúc lớn lao chỉ có ở những thằng dở hơi thì nhân hậu buông cho qua. Ngày hôm ấy quả là song hỷ lâm môn.
Ngày xuân, văn sĩ bán được văn trông giống hệt cô dâu sắp cưới. Má đỏ đảm đang mắt sáng hạnh phúc mũi thăng hoa nở. Chỉ hiềm nỗi gần đây giá cả rượu rau thịt cá phi mã tăng 21%, nên trước khi đặt dấu chấm hết bài gửi tới toà soạn bỗng hoang mang tự thở dài, tiếng thở não nuột nghe gần giống như tiếng nấc.
[HR][/HR]
6. BIA CỦA MỘT THỜI
Đã một thời gian xa xưa thật dài, với hầu hết những đàn ông Việt tử tế, khi muốn cao thượng thăng hoa say sưa thì đồ uống duy nhất chỉ là rượu. Chưa bao giờ cũng như chưa ở đâu, những đấng trượng phu hào sảng khí lớn bụng to Đại Việt của thời Lý Trần Lê Nguyễn lại ngồi trong tửu quán mà nhâm nhi uống bia. Bởi rượu là hành Mộc nơi đắc địa là phương Đông, còn bia thuộc hành Kim có xuất xứ từ trời tây. Lịch sử hành tiến, người Pháp vào Việt Nam, và trong cái hành trang “khai hoá” lổn nhổn vừa hay vừa dở mà họ cầm theo tự nhiên có một thùng bia hơi. Cho đến thập kỷ sáu mươi của thế kỷ hai mươi, nhiều đấng mày râu người Hà Nội khi rụt dè uống bia vẫn phải pha thêm xi-rô, có lẽ họ sành điệu cho rằng nó chỉ là giải khát. Thế rồi với xu hướng khó cưỡng, thế giới dần dần phải phẳng (thuật ngữ trắng trợn của nhà báo Mỹ Thomas Friedman) thì cách ăn uống của đàn ông Việt bỗng chốc trở nên lộn xộn mất dần bản sắc vùng miền. Bia ồn ào lên ngôi, tất nhiên cho đến giờ vẫn chỉ là ngôi vị Á hậu. Khi thấy đàn ông đang đỏ mặt loạng choạng liêu xiêu đi lại, những đàn bà đẫm đầy đạo đức buông ngay một câu “rõ là đồ bia rượu”. Chao ôi, phải chăng nhân loại đã đến thời mạt pháp, bia mà lại được đứng cạnh rượu.
Tất nhiên bình tĩnh công tâm mà nói, thì bia cũng có nhiều cái hay. Khí chất của bia tuy nông nổi nhưng dịu dàng vô tư tươi mát, nó chính là thứ uống tuyệt hảo để thư giãn giải độc giữa cữ nghỉ của cuộc hội thảo phê bình văn học và là đồ giải khát hạng nhất sau khi đã cãi nhau với người tình. Nếu miễn cưỡng phải so sánh thì bia vừa hồn nhiên vừa ngây thơ giống hệt Thuý Vân “khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang”. Còn rượu thì vừa đau đớn vừa trầm luân giống hệt Thuý Kiều “giật mình, mình lại thương mình xót xa”. Có lẽ là thế, tuyệt chưa thấy ai tiêu sầu bằng cách cô đơn ngồi nốc bia.
Về hình tướng, bia dễ đoán hơn rượu. Bia thường đựng trong cốc lớn, khi giao hoà với người uống thì bộ phận vất vả nhất là miệng. Theo “Ma Y tướng pháp” thì miệng còn gọi là “Xuất nạp quan, thuộc hành Thuỷ. Cửa ngoài của Tâm mà cũng là biên ải của thị phi phải trái. Miệng trúng phong thì Tâm tuyệt, bỗng dưng mồm há ba ngày tất sẽ tử vong”. Từ đấy suy ra miệng mà trúng bia thì Tâm thông, mồm nuốt hết cốc to mà há liền trong ba phút thì sinh lực dồi dào lời lẽ khoái hoạt.
Thời bao cấp quý nhất là lấy được vợ làm nghề bán gạo hoặc bán thực phẩm, nhưng sang nhất là yêu được một cô bán bia. Hàng bia là nơi quần long tụ hội, quần ngư tranh thực, quần chúng tranh ẩm. Nó luôn đông nghìn ngịt, cỡ li vờ sâu của Thanh Lam Hồng Nhung Mỹ Linh của thời bây giờ cũng không thể sánh bằng. Mua được bia mà không phải xếp hang đã là điều khác thường, còn có được bia mà không có đồ kèm thì đúng thực phi thường. Nhìn tổng thể cả quán, bàn nào bàn nấy giữa lác đác vài cốc bia là ngồn ngộn đen sì thịt bò xào phở (cứ một cốc lại bị một đĩa kèm). Đấy là còn may, chứ có hôm là cơm rang, là cháo lòng, là bíp tết thịt trâu ế từ buổi sáng. Dân chơi sành điệu của Hà Nội là ba bốn thanh niên tóc dài, mặt mũi vươn cao hút thuốc phì phèo toả khói lên trên mặt bang xâm xấp khoảng chục cốc bia hơi và xung quanh chỉ trịnh thượng cô đơn một đĩa lạc. Lạy Chúa, cái bàn bia ấy toát một ngạo khí kinh người, các đại gia tham nhũng của trọc phú thời nay ngồi ăn tôm hùm hoặc ba ba trong khách sạn năm sao vĩnh viễn không sánh nổi.
Mối tình đầu của kẻ viết bài này là một thiếu nữ bán bia. Chỗ nàng ngồi bán đơn sơ nhếch nhác vài cái ghế gỗ đang âm thầm ao ước lên hoành trang một cửa hang. Giống như những đàn ông trong trắng bắt đầu yêu, khi tỏ tình thì phải là thơ. Mấy chục năm rồi mà đoản thi ấy vẫn sóng sánh trong trí nhớ.
Em bán bia ơi em bán bia
Nhìn em nước mắt bỗng đầm đìa
Tình em cũng giống bia em rót
Chỉ thấy bọt thôi chẳng thấy bia
Này cô em đong bia có hơi điêu tay của ngày ấy, bây giờ em ở đâu.