Những Người Thầy Nổi Tiếng Trong Lịch Sử Việt Nam

mimi1986

Điều hành cấp cao
CHU VĂN AN
NGƯỜI THẦY MẪU MỰC DẠY 2 VUA TRIỀU TRẦN



Trên các báo còn ít bài viết đầy đủ về cuộc đời và sự nghiệp ''trồng người'' của nhà giáo Chu Văn An ở thế kỷ 13 mà thường nói đến sự kiện “Thất trảm sớ"và việc treo ấn từ quan của ông.

Chuyện kể rằng, bà Lê Thị Chiêm - mẹ của Chu Văn An người làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm, nay là huyện Thanh Trì, Hà Nội. Vào những ngày nông nhàn, từ sáng sớm bà đã đi chợ, cái thúng úp trên vai, trong thúng chỉ có cái đấu mang theo. Vốn liếng chẳng có, bà đến chỗ người có gạo nhà đem bán để mua chịu và đem ra góc chợ chờ người khác đến bán kiếm chút lãi nhỏ. Tan chợ, đầu đội thúng, tay cắp bó bã mía thu ở chợ về làm đồ đun. Bà Chiêm tuy không biết chữ, nhưng như con ong mật làm tổ xây đời, bà đã lo toan cho Chu Văn An học hành thành đạt, đậu Thái học sinh. Tiếng đồn khắp vùng, ông là người tài cao đạo trọng, nhiều người đã biện lễ (trầu, cau, chè) tìm đến xin thầy cho con mình được thọ giáo.

Ở thể kỷ 13 (triều Trần), không khí học tập khá sôi nổi, nhưng trường thi ít, chỉ để giành cho các con vua, hoàng tộc, quan lại, quý tộc. Các làng có điều kiện mở trường trẻ do thầy đồ, thầy khóa, ông tú, ông cử... không ra làm quan mà ở nhà dạy học.

Thầy Chu Văn An mở trường Huỳnh Cung ở một làng quê giáp với làng mẹ sinh sống. Trường của thầy có Hội đồng môn do thầy chọn trong các môn sinh. Và Hội đồng môn suy tôn trưởng tràng là người giỏi giang và phẩm chất tốt. Do uyên bác, thầy Chu Văn An đủ sức dạy môn sinh học liền 10 năm để nộp quyển dự các kỳ thi hương, thi hội, thi đình, tức tú tài, cử nhân, tiến sĩ. Các môn sinh của thầy, sử sách còn ghi lại: Phạm Sư Mạnh, Lê Quát đỗ Thái học sinh đời vua Trần Anh Tông đã làm quan trọng triều đến chức Hành Khiển (Tể tướng).

Tiếng thơm của thầy Chu Văn An bay xa, lan tỏa đến cung đình, quan Tư đồ Trần Nguyên Đán (đời vua Trần Minh Tông) đã tìm đến trường Huỳnh Cung để trò chuyện như tìm được người bạn tri kỷ và ướm lời mai mốt nhà vua sẽ ra chiếu chỉ vời ông vào triều dạy học. Thực lòng, Chu Văn An không muốn thay áo đổi giầy (cởi áo the mặc áo dụng xanh, bỏ đôi giầy cỏ xỏ đôi hia hài) mà mừng là, tuy triều Trần đã bắt đầu suy vi nhưng vẫn còn Hoàng thượng thấy được việc học là trọng để duy trì xã tắc, nên muốn góp công vun đắp. Vì ông nghĩ, đất nước thanh bình và thịnh trị điều cơ bản phải có minh quân. Là minh quân thì vị vua ấy phải học, tức là phải học đạo đức, học văn hóa để trị quốc và bình thiên hạ.

Vào triều, Trần Minh Tông hai lần đến gặp, trò chuyện, thăm dò tài cao đức trọng của thầy Chu Văn An. Hoàng thượng nói: Trẫm nghĩ không sai khi tuyển khanh vào để cùng với các đại quan chèo lái quốc gia. Nhưng trước mắt, việc của khanh là dạy Thái tử và giữ chức Tư nghiệp.

Minh Tông ủy thác cho thầy Chu dạy Trần Vượng. Qua quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, Chu Văn An biết được những rắc rối trong việc lập Trần Vượng làm Thái tử, sau lên ngôi vua là Trần Hiến Tông, lúc 10 tuổi.
Thầy Chu dạy Trần Vượng từ khi chưa được phong Thái tử. Đây là cậu hoàng tử chăm học, thông minh nên thầy gắng công dạy bảo, rèn dũa. Khi nhiếp chính Thái thượng Hoàng Minh Tông thấy lời lẽ của Hiến Tông rắn rỏi, nên đánh giá cao công lao dạy dỗ của thầy Chu Văn An.

Mới ngoài 20 tuổi, Hiến Tông đã theo tiên tổ về nơi chín suối. Sau Hiến Tông là Dụ Tông. Ông vua này cũng được Chu Văn An dạy dỗ.

Đến đời vua Trần Minh Tông, ông được mời vào làm Tư nghiệp ở Quốc Tử Giám để dạy Thái tử học. Ông đã cùng với Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn tham gia vào công việc củng cố triều đình lúc đó đang đi dần vào con đường khủng hoảng, suy thoái.

Theo thư tịch cũ thì Chu Văn An viết nhiều sách, ông đã để lại cho đời sau những tác phẩm: hai tập thơ Quốc ngữ thi tập bằng chữ Nôm và Tiều ẩn thi tập bằng chữ Hán. Ông còn viết một cuốn sách biện luận giản ước về Tứ thư nhan đề Tứ thư thuyết ước. Theo một tài liệu nghiên cứu gần đây thì Chu Văn An còn là một nhà đông y đã biên soạn quyển Y học yếu giải tập chu di biên gồm những lý luận cơ bản về chữa trị bệnh bằng Đông y. Khi ông mất, vua Trần đã dành cho ông một vinh dự lớn bậc nhất đối với một trí thức là được thờ ở Văn Miếu. Vua còn ban tặng tên thụy cho ông là Văn Trinh. Ngô Thế Vinh, nhà văn học nổi tiếng thế kỷ 19 trong bài văn bia ở đền Phương Sơn đã thích nghĩa hai chữ "Văn Trinh" như sau: (Văn, đức chi biểu dã; Trinh, đức chỉ chính cổ dã. Văn là sự bên ngoài (thuần nhất )của đức; Trinh là tính chính trực, kiên địch của đức). Tên thụy như vậy nhằm biểu dương một người đã kết hợp được hai mặt của đạo đức: bên ngoài thuần nhã, hiền hòa với bên trong chính trực, kiên định. Trong lịch sử giáo dục nước nhà, ông cũng đã giành được địa vị cao quí bậc nhất, xứng đáng đứng đầu các nhà giáo từ xưa tới nay. Ông đã vượt qua ngưỡng cửa: làm thầy giáo giỏi của một đời để đạt tới làm thầy giáo giỏi của muôn đời như Phan Huy Chú đã ngợi ca ông: "học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, làng Nho nước Việt trước sau chỉ có mình ông, các ông khác không thể so sánh được".

Sống trong hoàng cung và được làm bạn với quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, Chu Văn An hiểu rõ tình thế nguy ngập, suy vong của triều đại Hiển Tông, Dụ Tông. Và, nhìn lên từ đời Anh Tông, Minh Tông thấy trong triều đã nảy sinh những cận thần hèn kém, chuyên nghĩ cách làm thỏa mãn những thị hiếu của vua, còn những người thẳng thắn can ngăn thì bị cách chức. Anh Tông cách chức Phạm Mai, Minh Tông cách chức Nguyễn Trung Ngạn...

Quan Tư đồ Trần Nguyên Đán thấy Chu Văn An kém vui, một hôm dù đã khuya, ông vẫn đến thăm thầy Chu và bày tỏ tâm can. Thấy có kẻ theo dõi, quan Tư đồ vội vã ra về. Còn lại một mình, Chu Văn An ngồi viết ''thất trảm sớ''. Ông cân nhắc từng chữ, từng tên người và sự việc, ý tứ chặt chẽ, tâm huyết sôi nổi, bày tỏ và hy vọng. Viết xong, ông đem đến để phòng riêng của Dụ Tông - nơi ông đặc cách đến dạy vua. Xong việc, ông thay quần đổi áo... và rời khỏi cung điện. Về thăm mẹ được ít ngày, nghĩ đến “Thất trảm sớ'' và sợ liên lụy cho mẹ, ông quyết định về sống ẩn dật ở Chí Linh, giao việc chăm sóc nuôi dưỡng mẹ cho một môn sinh mà ông có công nuôi dạy và được dân làng mời về dạy ở trường Huỳnh Cung. Dù thay tên là Tiều Ẩn (người kiếm củi ẩn dật) chỉ ít lâu sau, khắp vùng đồn đại tên tuổi thầy Chu Văn An. Người nọ mách người kia dắt con đến nhờ thầy dạy bảo. Vì vậy, ông lại mở trường dạy học. Những ngày thư nhàn, ông ngao du sơn thủy bầu bạn với non xanh nước biếc. Gặp lại Trần Nguyên Đán như gặp lại bạn bè tâm đắc keo sơn.

Về đây ngoài việc dạy học, Chu Văn An còn viết sách làm thơ. Ông viết "Tứ thư thuyết ước” tổng kết bài giảng cùng phương pháp dạy. Về thơ, có "Quốc âm thi tập", ''Tiều ẩn thi tập”. Thời gian ông ở Chí Linh xảy ra việc Dương Nhật Lễ cướp ngôi Trần. Nhưng chỉ ít lâu sau, dưới sự chỉ huy của Trần Phủ và chị gái là công chúa Thiên Ninh, lại được sự ủng hộ của Trần Nguyên Đán, Trần Ngạc … đã lấy lại được kinh đô Thăng Long. Trần Phủ lên ngôi, tức Trần Nghệ Tông, Chu Văn An chống gậy về triều chúc mừng. Và, sau đó một năm - năm Canh Tuất, ngày 28 tháng 11 (tức năm 1370), ông mất tại xã Kiệt Đắc, nay là xã Văn An, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, thọ 78 tuổi.

Trân trọng tài năng, nhân cách và sự cống hiến của ông, vua Nghệ Tông đã ban tên Thụy là Văn Trinh và cho người mang lễ vật đến viếng và cho thờ ông ở Văn Miếu. Ở núi Phượng Hoàng, Chí Linh, Hải Dương, nơi ông về sống ẩn và dạy học cũng có đền thờ, ghi 8 chữ: "Chu Văn Linh tiên sinh ẩn cư xứ".

Một huyền thoại vẫn được lưu truyền nói về ngôi trường và nhân cách, đạo đức của ông như sau: "Tương truyền khi Chu Văn An mở trường dạy học ở quê nhà, có nhiều học trò tìm đến theo học. Trong số này có một người sáng nào cũng đến thật sớm nghe giảng. Thầy dạy khen là chăm chỉ nhưng không rõ tông tích ở đâu. ông bèn cho người dò xem thì cứ đến khu đầm Đại (khu đầm lớn hình vành khuyên, nằm giữa các làng Đại Từ , Tứ Kỳ, Huỳnh Cung) thì biến mất. Ông biết là thần nước. Gặp lúc đại hạn kéo dài, giảng bài xong ông tụ tập các trò lại hỏi xem ai có tài thì làm mưa giúp dân, giúp thầy. Người học trò kỳ lạ trước có vẻ ngần ngại, sau đứng ra xin nhận và nói với thầy: "Con vâng lời thầy là trái lệnh Thiên đình, nhưng con cứ làm để giúp dân. Mai kia nếu có chuyện gì không hay, mong thầy chu toàn cho". Sau đó người này ra giữa sân lấy nghiên mài mực, ngửa mặt lên trời khấn và lấy bút thấm mực vẩy ra khắp nơi. Vẩy gần hết mực, lại tung cả nghiên lẫn bút lên trời. Lập tức mây đen kéo đến, trời đổ mưa một trận rất lớn. Đêm hôm ấy có tiếng sét và đến sáng thấy có thây thuồng luồng nổi lên ở đầm. Chu Văn An được tin khóc thương luyến tiếc rồi sai học trò làm lễ an táng, nhân dân các làng lân cận cũng đến giúp sức và sau nhớ công ơn bèn lập đền thờ. Nay vẫn còn dấu vết mộ thần. Theo truyền thuyết, chỗ nghiên mực bị ném rơi xuống đã biến thành đầm nước lúc nào cũng đen, nên thành tên là Đầm Mực. Quản bút rơi xuống làng Tả Thanh Oai biến làng này thành một làng văn học quê hương của Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, v.v... Trong đền thờ thần còn đôi câu đối khá tiêu biểu ghi lại sự tích này.

Mặc nghiễn khởi tường vân, nhất bút lực hồi thiên tự thuận.
Chu đình lưu hóa vũ, thiên trù vọng thiếp địa phồn khô.

( Mây lành từ nghiên mực bay lên, một ngọn bút ra công trời thuận theo lẽ phải.
Mưa tốt giữa sân son đổ xuống, nghìn cánh đồng đội nước, đất nẻ trổ mùa hoa).
(Chu đình có hai nghĩa: sân son và sân họ Chu, chỉ Chu Văn An).

Câu chuyện trên đây chỉ là một giai thoại về Chu Văn An để nói rằng tài đức của họ Chu có sức mạnh cảm hóa được cả quỷ thần. Tuy nhiên, qua đó cũng thấy được đức độ của Chu Văn An lúc đương thời là rất lớn.

Ngày nay, để tưởng nhớ tới đạo đức và sự nghiệp của ông, nhân dân Thủ đô đã lấy tên ông để đặt tên cho một đường phố và một trường trung học lớn của Hà Nội. Đó là phố Chu Văn An và Trường phổ thông Trung học Chu Văn An. Phố Chu Văn An, nguyên là đại lộ Van Vôlenhôven thời Pháp thuộc, đi từ đường Điện Biên Phủ đến phố Nguyễn Thái Học. Còn Trường trung học Chu Văn An nằm trên đường Thụy Khuê ngay ven Hồ Tây, nơi lưu truyền đầy những giai thoại và truyền thuyết cổ xưa. Trường này nguyên trước là Trường cao đẳng tiểu học Bảo hộ (collège du protectorat) do thực dân Pháp lập từ năm 1907 để chống lại phong trào Đông kinh Nghĩa thục, nhưng nhân dân ta thường vẫn quen gọi là Trường Bưởi.

Năm 1945, Cách mạng thành công, các nhà giáo và nhân dân Hà Nội đã nhất trí chọn tên nhà giáo dục mẫu mực Chu Văn An đặt tên cho trường.
 

mimi1986

Điều hành cấp cao
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888)

Thi sĩ nho giáo yêu nước nổi tiếng, nhà giáo dục và y học ở miền Nam cuối thế kỷ 19. Nguyễn Đình Chiểu, tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai, sinh ngày 01.7.1822 tại Gia Định, Sài Gòn. Thân sinh là Nguyễn Đình Huy, người xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên là Thơ lại Văn hàn ty của Tổng trấn Lê Văn Duyệt. Mẹ là Trương Thị Thiệt, người Gia Định.
Tuổi niên thiếu, Nguyễn Đình Chiểu từng chứng kiến cảnh loạn lạc của xã hội lúc bấy giờ. Những cuộc nổi dậy của đồng bào các dân tộc bị triều đình Huế đàn áp, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi tại Gia Định đã gây ra những bão táp kinh hoàng trực tiếp đến gia đình ông. Nguyễn Đình Huy bỏ trốn ra Huế, bị cách chức, sau đó trở vào Nam đón Nguyễn Đình Chiểu, đem gửi cho một người bạn để ăn học. Cuộc sống 8 năm ở Huế đã giúp ông nhận rõ hơn sự thối nát và phức tạp của triều đình, đồng thời có điều kiện để tiếp thu truyền thống văn hoá dân tộc ở đất kinh đô.
Năm 1843, ông thi đỗ tú tài ở Trường thi Gia Định. Năm 25 tuổi, ông trở ra Huế học tập, chờ khoa thi năm Kỷ Dậu (1849), nhưng chưa kịp thi thì có tin mẹ mất. Trên đường trở về quê chịu tang mẹ, vì quá lo buồn, khóc thương, ông lâm bệnh và mù cả hai mắt.
Về đến Gia Định, sau khi mãn tang mẹ, ông tổ chức dạy học, bốc thuốc chữa bệnh và sáng tác thơ văn. Nhờ sống gắn bó với nhân dân, ông có điều kiện hiểu đồng bào của mình sâu sắc hơn. Chính trong thời gian này, Nguyễn Đình Chiểu sáng tác truyện thơ "Lục Vân Tiên". Tác phẩm đề cập đến vấn đề đạo nghĩa ở đời, mang dấu ấn tự truyện, đã được nhanh chóng phổ biến rộng rãi. Một người học trò của ông là Lê Tăng Quýnh, vừa trọng nể tài năng và nhân cách, lại vừa thương cảm hoàn cảnh của thầy, đã đem gả người em gái là Lê Thị Điền cho ông. Ngày 17.2.1858, giặc Pháp chiếm thành Gia Định. Ông cùng gia đình chạy về quê vợ ở làng Thanh Ba, huyện Cần Giuộc. Cũng tại nơi đây, ông đã sáng tác áng văn bất hủ "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" ngợi ca chiến công anh hùng của những người "dân ấp dân lân" trong trận tấn công đồn Tây Dương, mà người bạn đồng khoa với ông là Đỗ Trình Thoại đã hy sinh cùng với 7 nghĩa quân khác. Tác phẩm "Dương Từ - Hà Mậu" dài 3.448 câu thơ mang nội dung phê phán âm mưu lợi dụng tôn giáo của kẻ địch, lên án những người thờ ơ, vô trách nhiệm trước cảnh nước mất nhà tan cũng được sáng tác tại đây.
Khi 3 tỉnh miền Đông rơi vào tay quân Pháp, không chịu sống trong vùng chiếm đóng của giặc, Nguyễn Đình Chiểu cùng gia đình xuôi thuyền về làng An Đức, tổng Bảo An, tỉnh Vĩnh Long, nay là huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Tại đây, ông tiếp tục dạy học trò, bốc thuốc chữa bệnh cho dân, đồng thời vẫn giữ mối liên hệ chặt chẽ với những sĩ phu yếu nước như Phan Văn Trị, Nguyễn Thông và lực lượng kháng chiến. Khi được tin Trương Định hy sinh (19.8.1864), nhà thơ xúc động, viết bài Văn tế và Mười hai bài thơ liên hoàn điếu người anh hùng. Mười bài thơ điếu Đốc binh Phan Tòng hy sinh trong trận Giồng Gạch (1868) vốn gốc là hương sư, bạn bè thân thiết với ông, lời lẽ rất thống thiết, có những câu thơ tâm huyết như lời thề tạc vào đá: "Tinh thần hai chữ pha sương tuyết, khí phách ngàn thu rỡ núi non". Khi Phan Thanh Giản uống thuốc độc tự tử sau khi để mất 3 tỉnh miền Tây, ông làm thơ điếu họ Phan với ít nhiều ngụ ý phê phán.
Thời gian này, Nguyễn Đình Chiểu sáng tác nhiều thơ văn bi tráng nhất, tiếc thương những đồng bào, bạn bè, nghĩa sĩ đã ngã xuống vì sự nghiệp độc lập, tự do của Tổ quốc. Nổi bật là thiên hùng bút "Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh". Tất cả tâm huyết của nhà thơ như dồn vào những câu đau xé lòng người: "Dân sa nước lửa bấy chầy, giặc ép mỡ dầu hết sức". Đồng bào ở đây kể lại rằng chính ông đứng ra làm lễ tế những nghĩa sĩ Lục tỉnh ngay tại chợ Ba Tri. Khi đọc xong bài điếu, nước mắt chảy ràn rụa và ông lăn kềnh ra nằm bất tỉnh.
Tác phẩm "Ngư tiều y thuật vấn đáp" được viết vào giai đoạn cuối đời với một bút pháp già dặn hơn và một niềm tâm sự sâu lắng, xót xa hơn trước cảnh đất nước bị “dưa chia, khăn xé”, nhưng không hề tuyệt vọng.
Bến Tre không phải là nơi sinh của nhà thơ, nhưng lại là nơi được ông chọn để sống, hoạt động trong suốt 26 năm đầy biến cố phức tạp vào giai đoạn cuối đời và đã vĩnh viễn gởi xương cốt tại đây. Người ta kể lại rằng ngày đưa đám ma ông, cả cánh đồng An Bình Đông, nay là An Đức, trắng xóa khăn tang của những bạn bè, học trò, con cháu xa gần, những thân chủ được ông chữa khỏi bệnh và những đồng bào quanh vùng hoặc đã chịu ơn ông, hoặc vì mến mộ, cảm phục một tâm hồn lớn, một nhân cách lớn
 
Top