Vương Đình Chi Đàm Đẩu Số - Các Cách Cục Tử Vi

mimi1986

Điều hành cấp cao
1. "Cự Cơ đồng lâm" cũng có khuyết điểm

"Cự Cơ đồng lâm cách" - tức cung mệnh có Cự Môn và Thiên Cơ đồng thủ cung Mão Dậu. Cổ ca rằng:
Cự Môn miếu vượng ngộ Thiên Cơ
Cao tiết thanh phong thế hãn hi
Học tựu nhất triều đằng đạt khứ
Nguy nguy đức nghiệp chấn hoa di"
(Cự Môn miếu vượng gặp Thiên Cơ, như đời gặp cảnh cây cao gió mát, sự học thành tựu thẳng một đường phẳng lặng mà tạo sự nghiệp vẻ vang, vinh hiển.)
Thiên Cơ Cự Môn đồng cung một tại cung Mão, một tại Dậu. Cổ nhân bình: "Thiên Cơ dữ Cự Môn đồng cư mão dậu, tất thoái tổ nhi tự hưng" (Cự Cơ mão dậu tất tổ nghiệp suy vi, tự mình phải vực dậy" hay như "Cơ Cự dậu thượng hóa cát giả, túng ngộ tài quan dã bất vinh" (Cơ Cự cư dậu hóa cát, nhưng Tài Quan cư đấy cũng khó vinh hiển), đổi lại cư Mão lại tốt hơn, nguyên nhân vì Thiên Cơ hành mộc, vào cung dậu thụ Kim khắc chế, không bằng tại Mão cung đắc được mộc vượng khí.
Bởi vậy có thể thấy trong "Cự Cơ đồng lâm" cách, Thiên Cơ mới thật sự là yếu tố mấu chốt, chủ yếu do Thiên Cơ chủ cơ biến, linh động, nếu Thiên Cơ bị khắc chế, kềm hãm tất Ám tinh là Cự Môn cũng khó mà dễ dàng dàn xếp ổn thỏa.
Song "Cự Cơ đồng lâm" dù có khuyết điểm, nhưng nó dễ linh động cho phù hợp với hoàn cảnh, có điểm xấu nữa là "đa học vô thành" (học nhiều mà không thành). Cổ ca khi nói sự học là "Học tựu nhất triều đạt đằng khứ", chỉ là cho rằng "học nghiệp thành tựu", chứ cho rằng nhất định thành quan công hầu bá, thì e rằng phải xem hậu thiên bổ cứu như thế nào đã.
"Cự Môn giao nhân, thủy thiện chung ác " (giao du với người Cự Môn, trước lành sau ác), thấy rằng "Cơ cự đồng lâm cách" có khuyết điểm riêng, nhưng nếu nhận biết rõ khuyết điểm ấy mà tiến hành tu chỉnh như gần người quân tử, xa lánh tiểu nhân, tất tự nhiên trở nên "cao phong lượng tiết" (thanh cao độ lượng) vậy.
------------------
- "thoái tổ" là sự nghiệp dòng họ lâm cảnh suy vi, chỉ yếu tố cung phúc đức, Cự Cơ cư mệnh là Thiên Luơng phúc cung ở Tị, chủ : "Phúc cung có Thiên Luơng tị hợi thì có nhiều tai họa, họ hàng ly tán, tha phuơng lập nghiệp, con trai bụi đời, con gái dâm dật khắc chồng con" (Trích sách TV hàm số của N.P.Lộc).
- "tự hưng" là tự bản thân mình (tự) làm cho hưng thịnh (hưng), có thể hiểu nôm na là người có thực tài ko cần nhờ đến cha mẹ dòng họ giúp đỡ, đó là bản chất của Cơ Cự chủ linh động và thích nghi rất tốt với hoàn cảnh, lại có mưu lược tính toán tốt (Cơ) và tài ăn nói (Cự) nên chính mình có thể lập nghiệp (tự hưng là ý này).
- Cự Cơ rất tốt cho người Ất Kỷ Bính Tân, ông Vuơng Đình Chi trích phú là có ý so sánh giữa 2 cung Mão và Dậu mà thôi. Chứ không phải cho là Cự Cơ tại Dậu xấu.
 
Last edited by a moderator:

mimi1986

Điều hành cấp cao
2.Tài tinh Vũ Khúc có nhiều khuyết điểm

Vũ Khúc là sao thứ sáu trong chòm Bắc đẩu, ngũ hành thuộc kim, được xếp là tài tinh trong khoa Đẩu số. Tài tinh là chính diệu chủ yếu có 3 sao Vũ Khúc, Thiên Phủ,Thái Âm, ba sao cùng là tài tinh nhưng có những đặc tính không giống nhau.
Trong 3 tài tinh, Vũ Khúc mang tính chất cô khắc, nhất là đối với hôn nhân càng ảnhhưởng, bình thường mà nói, nữ mệnh không nên có Vũ Khúc, bởi vì cổ thư chorằng: "Vũ Khúc chi tinh vi Quả Tú", nữ nhân gặp chủ quan hệ với đàn ông/chồng bất lợi, hoặc hình khắc vì quá nghiêm, hoặc sinh ly.
Thật ra nếu nghiên cứu kỹ lưỡng tính chất Vũ Khúc, có khi tình trạng này vị tất nghiêmtrọng như vậy, vì tính chất cô khắc của Vũ Khúc tất cả đều làm gia tăng tính cương nghị, như dạng phụ nữ sự nghiệp lên hàng đầu, dễ đem tính cách cương nghị vào cuộc sống gia đình, khiến đàn ông cảm thấy gia đình không ấm áp. Xã hội hiện đại phụ nữ cũng có thể có sự nghiệp riêng, có thể phát huy đặc tính Vũ Khúc vào trong sự nghiệp, chứ không nên đem điều đó đối đãi với chồng trong gia đình; ngược lại phải phát huy sự ôn nhu nữ tính, sẽ khiến gia đình tràn ngậphòa khí. Nhưng cho dù được như thế, với chồng cũng ít nhiều khó tránh tình trạng cô khắc. Đây là nhược điểm biểu hiện tại nữ mệnh có Vũ Khúc tọa thủ.
Vũ Khúc có một đặc tính riêng là sợ Hóa Kị nhất, chủ tình cảm vợ chồng phát sinh biến hóa, hoặc chủ tiền tài ra như nước chảy, thậm chí lâm cảnh nợ nần.Người tuổi Nhâm, Vũ Khúc Hóa Kị, nếu lạc vào cung Mệnh, Điền trạch, Phu thê,Tài bạch, Quan lộc thì rất không nên. Nhưng nếu phối hợp nhiều sao tốt, chỉ làý nghĩa không nên theo đường kinh thương mà thôi. Vương Đình Chi từng chứng kiến một vị thầy thuốc ngoại khoa, có Vũ Khúc Hóa Kị cư cung Quan lộc, nhưng vẫn giàu có.
Vũ Khúc trừ Hóa Kị ra, cũng kỵ gặp Hỏa Tinh hoặc Linh Tinh. Cổ nhân có thuyếtcho rằng "Vũ Khúc Hỏa Linh đồng cung, nhân tài bị kiếp" cái gọi là"nhân tài bị kiếp", không nhất định là gặp phải ăn cướp, bị cướp, màlà tài bạch tổn thất vì nhiều lý do khó cưỡng lại được. Nên nếu Vũ Khúc đi chung với Hỏa Tinh tọa mệnh, thì phá tài rất nhiều, cách hóa giải là giao cho người phối ngẫu nắm giữ. Nhưng nếu Phu thê cung lại không tốt, vậy chỉ thêm nhiều phiền toái mà thôi.
Vũ Khúc vốn là tài tinh, song đã có không ít khuyết điểm, đủ thấy có khi tài tinh chẳngphải nhất định lúc nào cũng tốt.
Trích: “Vũ Khúc có một đặc tính riênglà sợ Hóa Kị nhất, chủ tình cảm vợ chồng phát sinh biến hóa, hoặc chủ tiền tàira như nước chảy, thậm chí lâm cảnh nợ nần. Người tuổi Nhâm, Vũ Khúc Hóa Kị,nếu lạc vào cung Mệnh, Điền trạch, Phu thê, Tài bạch, Quan lộc thì rất khôngnên. Nhưng nếu phối hợp nhiều sao tốt, chỉ là ý nghĩa không nên theo đường kinhthương mà thôi. Vương Đình Chi từng chứng kiến một vị thầy thuốc ngoại khoa, cóVũ Khúc Hóa Kị cư cung Quan lộc, nhưng vẫn giàu có.”

 

mimi1986

Điều hành cấp cao
3. "Tả Hữu đồng viên" thuộc về ngụycách

Tả Hữu đồng viên cách tức Tả Phụ Hữu Bật đồng cung, lại hội hợp thêm các sao khoa danh trong Đẩu số như Văn Xương, Văn Khúc,Hóa Khoa.
Cổ ca rằng:
Khán phùng Phụ Bật mệnh trung lâm
Gia hội khoa tinh phúc canh thâm
Sự nghiệp ngang ngang truy Ngụy Trịnh
Quan cư đài các vạn nhân khâm.
(Phùng Phụ Bật đồng cung thủ mệnh như người được kính trọng, gia hội các sao khoa bảng thì càng phát phúc, sự nghiệp hiên ngang to lớn như học theo đời nhà Ngụy, nhàTrịnh của Trung Quốc, làm quan thì uy nghi đài các, vạn người tín phục)
Cách cục này, với xã hội hiện đại có thể nhận ra sự vô lý, căn cứ chỉ ra điều đó là cổ nhân cứ cho rằng "Tả Hữu đồng cung, Phi la y tử" (Tả Hữu đồng cung cùng người áo tía lọng vàng), khi an sao Tả Phụ Hữu Bật đơn thuần căn cứ vào tháng sinh, như sinh tháng 4 tất Tả Hữu đồng cung ở Mùi; sinh tháng 10 tất Tả Hữu đồng cung Sửu, khi gặp cách cục này,chẳng nhẽ người nào sinh tháng 4 hoặc tháng 10 đều là mệnh tốt, đều là"Phi la y tử" hay "quan cư đài các" cả sao?
Tả Phụ Hữu Bật trong Đẩu số chỉ là sao có tính chất "phụ tá", tác dụng củaTả Hữu không thể thành cách khi đứng một mình .
Do tính chất phụ tá, cho nên hai sao này khi giáp biên Tử Vi hoặc Thái Dương cư miếu vượng cung thì giúp cho Tử Vi/ Thái Dương cực mạnh, ngược lại khi đồng cung lực giúp đỡ của Tả Hữu có sự bất cập (thua sút, không bằng giáp cung), nếu Tả Hữu đồng cung có khả năng "sự nghiệp ngang ngang truy Ngụy Trịnh ", vậy"Tả Hữu phò Đế" thành ra lạc cách, há chẳng phải là chẳng cần bọnthuộc hạ giúp Hoàng đế sao?
Cách cục cổ nhân xác định sai đúng, tối nghĩa lẫn lộn, thậm chí phải đọc lời mà tìm nghĩa, "Tả Hữu thủ viên cách" là một trong số đó, tốt nhất là nên lược bỏ để tránh vàng thau lẫn lộn.
 

mimi1986

Điều hành cấp cao
4. Song Lộc vi cung cục

"Song Lộc triều viên cách" cùng "Lộc thai uyên ương" có chỗ bất đồng,"Lộc thai uyên ương" là Lộc tinh thủ mệnh, chỉ riêng một Lộc tinh lai hợp; còn "Song Lộc triều viên" là cung Mệnh không có Lộc tinh thủ cung, nhưng Lộc Tồn cùng Hóa Lộc phân ra ở 3 phương chiếu về cung Mệnh. Như cung Mệnh tại tý, Lộc tồn tại thân, Hóa Lộc cư thìn; thân tý thìn ba cung tươnghợp. Hoặc Lộc tinh tại đối cung cũng có thể hợp cách.
Cổ ca rằng:
Tài quan nhị xử dữ thiên di,
Song Lộc lâm chi tối hữu nghi,
Đức hợp kiền khôn nhân kính trọng,
Thao thao phú quý thế hi kỳ.
(Hai cungTài Quan và cung Thiên di rất nên có song Lộc tọa thủ là rất tốt, đức hợp vớitrời đất được người người kính trọng, còn phú quý như nước chảy cuồn cuộn, nhưvậy thật hiếm thấy)
Cách này nếu song Lộc đồng cung là không hợp cách. Phải cần một thủ cung Tài bạch, một thủ cung Quan Lộc; hoặc một thủ cung Tài bạch, một thủ cung Thiên di;hoặc một thủ cung Quan Lộc, một thủ cung Thiên di, vậy mới là cách đẹp. Nếu có Kỵ tinh ở cung Mệnh hoặc ba phương xung phá, thì không thể gọi là hợp cách.
"Song Lộc triều viên" tốt ở chỗ dễ phát tài, nhất là song Lộc phân bốvào tam phương hội hợp về, tuần hoàn mỗi mười hai năm, chí ít cũng có ba lần lưuniên ở cung Mệnh hội hợp song Lộc, cách vài năm lại có một lần tiền tài như ý,khí thế tài vận cả đời người vì thế mà cũng dễ dàng hơn.
Nhưng cách cục này vẫn có sự phân biệt cao thấp. Nếu cát tinh thủ Mệnh, hơn nữa mệnh lại cường và có lực, tất cách cục là cao, nhược cung Mệnh thủ sao phù động, như Thiên Cơ, Cự Môn, tất cách cục là thấp. Lại gặp Tứ Sát phân bố ở 3 phương là cung Mệnh hội nhiều Sát tinh, chỉ chủ nhiều tiền tài thì nhiều tai họa.
 

mimi1986

Điều hành cấp cao
5. Ba tính chất đặc biệt của người Thái Dương thủ mệnh

Cổ nhân đối với Thái Dương luôn luôn có một thiên kiến rằng miếu vượng tất cát, lạc hãm tất hung. Gọi là miếu vượng, tức là thời giờ ánh mặt trời mãnh liệt, bắt đầu cung Mão đến Ngọ ví như mặt trời giữa ban ngày, đến cung dậu mặt trời bắt đầu lặn về phía Tây, dỹ nhiên là sau đó đến cung Dần được ví như "Thái dương thủy hữu xuất san chi tượng" (tượng mặt trời bắt đầu mọc trên đỉnh núi ).
Bởi vậy, khi phán đoán người có Thái Dương thủ cung Mệnh, rất coi trọng tính chất cung đóng. Nói cách khác, Thái Dương tại cung Hợi thủ mệnh, vận mệnh không bằng tại Tị cung. Phương thức đoán mệnh này, cơ hồ đã thành "kim khoa ngọc luật" (nguyên tắc vàng ngọc).
Cho nên cổ thư đối với Thái Dương thủ mệnh có vài câu bình ngữ điển hình:
- "Thái dương thủ mệnh lạc hãm, tuy hóa quyền lộc diệc hung, quan lộc bất hiển, thành bại bất nhất." (Thái Dương thủ mệnh vào đất hãm, tuy hóa Quyền Lộc cũng hung, quan lộc không hiển đạt, thành bại thất thường)
- "Thái dương thủ mệnh, lạc hãm gia hung sát, kỳ nhân đới tật." (Thái Dương thủ mệnh, lạc hãm thêm hung sát tinh, trong người thường có tật.)
- "Thái dương thủ mệnh miếu vượng, phú quý vinh hoa."
- "Nữ mệnh Thái dương, cư mão thìn tị ngọ, vô sát, vượng phu ích tử" (Nữ mệnh Thái Dương, cư mão thìn tị ngọ, không hội hợp sát tinh, thì là mẫu phụ nữ làm lợi cho chồng con)
Tóm lại, cứ thấy cung Mệnh cư cung ban ngày có Thái Dương là cát, gặp cung ban đêm Thái Dương cũng có uy lực riêng. Trung Châu phái luận về Thái Dương tinh, dựa trên sự so sánh khách quan nhiều hơn.
Thái Dương tọa mệnh kỳ thật có ba tính chất chung:
- Thứ nhất là hào phóng, phóng khoáng. Gọi là hào phóng, có tính không so đo tính toán tiểu tiết. Cho nên người Thái Dương thủ mệnh, tuyệt đối sẽ không ghi tạc lỗi lầm của người khác trong lòng.
- Thứ hai, coi danh dự lớn hơn mối lợi của mình. Ở Đẩu số, Thái Âm chủ phú, Thái Dương chủ quý, cho nên người có Thái Dương tọa mệnh, bất kể sự nghiệp lớn hay rộng mở cỡ nào, cũng khó mà cự phú (giàu có lớn), thậm chí có khi giá trị giàu có không bằng nhân viên dưới quyền.
- Thứ ba, thường có tâm khí cao ngạo, khiến cho người lâm vào hoàn cảnh bất lợi, tính khí cũng thường xuyên bất phục đối với thủ trưởng, trừ phi thủ trưởng thực sự có danh vọng, uy tín rất cao, hoặc là có năng lực lãnh đạo mạnh mẽ. Người Thái Dương thủ mệnh nếu không hiểu biết điều này chỉ làm chính mình lâm vào hoàn cảnh không tốt, cũng như phải hiểu rằng ở đâu cũng có người giỏi hơn.
 

mimi1986

Điều hành cấp cao
6. So sánh Thái Dương và Tử Vi

Thái Dương thủ mệnh có rất nhiều tính chất cơ bản, tại Đẩu số Thái Âm chủ phú, Thái Dương chủ quý, đây là tính chất cơ bản nhất, cho nên phàm Thái Dương thủ mệnh,cứ từ phương diện "Quý" này mà quan sát, nhận xét.
Người trọng ở quý, cho nên Thái Dương rất mừng gặp được một số trợ tinh chủ quýhội hợp. Như Thiên Khôi, Thiên Việt; Tả Phụ, Hữu Bật; Văn Xương, Văn Khúc; TamThai, Bát Tọa; Ân Quang, Thiên Quý; Long Trì, Phượng Các. Các trợ tinh này chia làm sáu cặp, nếu Thái Dương được tất cả những cặp sao này cùng hội hợp, lực lượng hỗ trợ lớn hơn gấp bội.
Ví dụ nếuThái Dương cùng hội ba cát tinh Văn Xương, Hữu Bật, Thiên Khôi (chỉ 1 sao trong cặp sao)không bằng khi 3 sao này có đủ một cặp sao, như khi hội đủ Tả Phụ HữuBật (có đủ cặp), thì lực lượng so với 3 sao bị phân tán trên lại trở nên rất mạnh.
Tam Thai Bát Tọa, Ân Quang Thiên Quý là những sao đi cặp với nhau, một khi bịphân tán thì lực tác động yếu đi, nhưng nếu đủ cặp đi cùng Thái Dương thì lựctác động lại to lớn, thậm chí lực tác động còn lớn hơn ba bốn sao trong lục cát khi chúng không thành đôi (Lục cát tinh tức Xương Khúc, Khôi Việt, Phụ Bật).
Tính chất này của Thái Dương có thể nói so với Tử Vi không khác biệt lắm, bởivì Tử Vi cũng cần cát tinh triều củng, sau mới có thể phát huy khả năng. Nhưngtrong đó cũng có một chút phân biệt:
- Tử Vi mừng có Thiên Phủ, Thiên Tướng triều củng, Thái Dương dường như không thích vậy; Tử Vi sợ "Lục sát", Tham Lang và Phá Quân, nhưng Thái Dương không sợ, nhưng lại sợ Cự Môn. Tử Vi thủ mệnh là người có năng lực lãnh đạo, phong cách uy nghiêm, khó gần; còn Thái Dương thủ mệnh lực lãnh đạo yếu hơn, nhưng có đặc tính hay giúp đỡ bố thí không cầu lợi lộc, điều này dường như dễ thân cận với người khác.
- Nhưng Thái Dương lại có lực hình khắc mà Tử Vi không có. Tử Vi thủ mệnh, thì quan hệ với cha mẹ, vợ chồng, huynh đệ, con gái tương đối tốt, nhưng Thái Dương thủ mệnh, thì đối với cha, huynh trưởng, con trưởng lại có sự hình khắc, nặng thì tử vong, nhẹ thì sanh ly, hoặc là tình cảm không tốt.
Cho nên tính chất Tử Vi vẫn còn tốt hơn, thậm chí ngay cả so sánh tình trạng sức khỏe cũng tốt hơn một chút.
 

mimi1986

Điều hành cấp cao
7 Phân biệt tính chất cát hung của Thiên Lương

Vì Thiên Lương tàng chứa nhiều tính chất biến hóa, bất kể tổ hợp "Thiên Lương Thái Dương", "Thiên Lương Thiên Cơ" hay"Thiên Lương Thiên Đồng" đều rất dễ có biến hóa hết sức cực đoan, cho nên Vương Đình Chi ý định nói rõ kỷ càng tỉ mỉ một chút tư liệu này.

- Thiên Lương không nên gặp tinh diệu có tính chất thiên về phù động, đây chính là đặc điểm đầu tiên của nó, nên thuyết pháp cổ có "Thiên lương Thiên mã hãm, phiêu đãng vô nghi" (Thiên Lương Thiên Mã hãm, phiêu đãng không nghi ngờ); "Thiên Lương Nguyệt diệu, nữ dâm bần"; "Lương dậu Nguyệt tị, khước tác phiêu phùng chi khách".

- Thiên Lương tối kỵ gặp Kình Dương Đà La, là đặc điểm thứ hai, nên cổ nhân có thuyết pháp "Thiên Lương hãm địa kiến Dương Đà, thương phong bại tục". (Lương hãm gặp Dương Đà đồng cung làm tổn hại đến đạo đức, phong tục, tập quán truyền thống).

- Thiên Lương mừng được cư cung miếu vượng và đắc các sao phụ tá triều củng trợ giúp, cho nên Thiên Lương không thích 3 cunghãm là tị thân hợi, vào dậu cung cũng chê cho là bình thường, cái gọi là phụ tá chi diệu, đầu tiên phải kể đến là Thiên Khôi Thiên Việt, Tả Phụ Hữu Bật, Văn Xương Văn Khúc, Lộc Tồn Thiên Mã; thứ nữa là một trong các bộ sao tạp diệu Tam Thai Bát Tọa; Long Trì Phượng Các; Ân Quang Thiên Quý; Thiên Quan Thiên Phúc.Đây là đặc điểm thứ ba, nên cổ nhân có các thuyết pháp "Thiên Lương thủ chiếu, cát tương phùng, bình sanh phúc thọ", "Thiên Lương miếu vượng,Tả Hữu Xương Khúc gia hội, xuất tướng nhập tướng".

Lưu niên tiểu hạn, sao lưu theo tuổi, gặp Thiên Lương cũng có ảnh hưởng tương đương. Thiên Lương hỉ gặp sao lưu Thanh Long, Tấu Thư, gặp là chủ có chuyện mừng về văn thư, giấy tờ, bằng sắc; song cái gọi là "Văn thư chi hỉ" thì Thanh Long, Tấu Thư cùng Văn Xương Văn Khúc cũng không giống nhau; "Văn thư" Văn Xương Văn Khúc có thể chỉ trái khoán, chi phiếu cùng cổ phiếu; nhưng Thiên Lương kiến "Văn thư" Thanh Long Tấu Thư, chỉ có thể nói là công văn chính phủ hoặc một đại cơ cấu. Bình thường phần nhiều chỉ chức vị thăng tiến, hoặc thu hoạch, đạt đượcdanh hàm. Tin rằng một nhân vật nổi tiếng về chuyện gì, năm đó đương số tất có Thiên Lương gặp được Thanh Long hoặc Tấu Thư.

Vì Thiên Lương cát thì giơ tay làm một mình, hung thì tính tình lầm lỳ, cho nên bất kể cát hung cùng lợi vào sự họcthuật nghiên cứu. Cổ nhân chỉ cho là "Lương Đồng Cơ Nguyệt dần thân vị,nhất sanh lợi nghiệp thông minh" (Lương Đồng Cơ Nguyệt dần thân vị, cảđời thông minh lợi nghiệp", (các vị trí) còn lại là tổn hại vì dâm cùng cơ trí, và phát huy tính chất cô khắc nếu gặp thêm Hình Kỵ, nhưng nếu ở hậu thiên có cách cục có khả năng tương phù, tháo gỡ thì tính cách biến thành linh động(khó hợp vào học thuật nghiên cứu), vậy bản thân cũng khó thể trở thành người tài giỏi trong giới học thuật.
 
Last edited by a moderator:

mimi1986

Điều hành cấp cao
8. Đặc tính "tiêu tai giải nạn" của Thiên Lương

Cổ thư thường dẫn giảng sai cho độc giả, chớ dựa chỉ vào một sao Thiên Lương để suy đoán. Bổn mộc cổ thư đều nói Thiên Lương là thọ tinh, hóa khí là ấm * , chuyên việc khống chế hóa giải tai ách, ấm vào thân mệnh, cái phúc truyền đến đời con đời cháu, thậm chí thuyết "Nãi vạn toàn thanh danh, hiển vu vương thất" (Ấy là thanh danh vẹn toàn,vinh hiển vào hàng họ hàng của vua); "Nhược canh phùng Tả Hữu Xương Khúc gia hội, tắc xuất tướng nhập tướng" (Nếu Thiên Lương hội hợp Tả Hữu Xương Khúc tất oai phong như vị quan tướng). Đích thực những điều đã nói về Thiên Lương quá ư tốt lành một cách dị thường.

Chỉ có Tuệ Tâm Trai Chủ (**) là người tiên phong có thể chỉ ra đích xác chân tướng, đặc chất của Thiên Lương. Bà ta nói rằng: "Trong các sao, Thiên Lương là một sao có đầy đủ khả năng phùng hung hóa cát, gặp khó khăn nguy hiểm là xuất hiện điềm lành, do đó nhất định phải biểu hiện khả năng giải nạn cho đến khi tỏ rõ điềm lành (hết nạn), cho nên người có Thiên Lương tọa mệnh, bất kể cung vị nào, có hay không hội chiếu cát tinh đều không khỏi gặp phải khó khăn, khiến Thiên Lương thực thi hóa giải."

Người sau viết và xuất bản sách Đẩu số, bởi vậy mà cũng hiểu được cái nhìn có thay đổi đối với Thiên Lương, tuy không xứng đáng khen ngợi nhưng được như vậy là rõ ràng mạch lạc rồi! Người dùng Đẩu số xưa, chỉ có thể căn cứ ca quyết cổ: "Thiên Lương, Nguyệt diệu nữ dâm tham", để cử ra khuyết điểm duy nhất của kết cấu tinh hệ Thiên Lương, nhưng rồi lại hiểu lầm ý tứ của "Lương Đồng đối cư tị hợi, nam lãng đãng, nữ đa dâm", cơ hồ tưởng rằng nữ nhân cóloại kết cấu tinh hệ này hết thảy đều thành "dâm oa đãng phụ" (***)cả sao.

Kỳ thực, sao Thiên Lương không quá xấu cũng không quá tốt, chỉ là trước tiên làm cho người ta gặp phải khó khăn hoặc hung hiểm, sau đó lại hóa giải thành như không mà thôi. Cho nên, dù khai đao phẫu thuật ắt hẳn không chết; hoặc sự nghiệp sắp sửa sập tiệm lại có thể đột nhiên gặp được tư trợ; mang đến hết thảy tai nạn bệnh thống, rồi kết quả là cuộc sống đều chống chọi được mà đi tới,nguyên nhân chính là như thế, cho nên người có Thiên Lương tọa mệnh, từ tuổi trung niên trở đi, quay đầu nhìn lại chuyện cũ trong quá khứ, thường thường cảmthấy đời người như hư không, vì thế nên tư tưởng phần nhiều tinh thần u uất, có khuynh hướng tiêu cực.

Một tính chất khác của Thiên Lương là thần bí, người có Thiên Lương tọa mệnh,không có khuynh hướng tự giác tin tưởng sự vật thần bí. Nếu phát triển một phương diện tích cực, thì người Thiên Lương ham thích nghiên cứu và thảo luận về xã hội đương thời, thường cho rằng cái lý của nhận thức rất thâm thúy, nhưng giới hạn ở chỗ nặng lý luận mà ít thật tiễn; nhưng nếu định hướng phát triển không tốt, thì tính cách rơi vào soi mói, kiếm chuyện bắt bẻ con chữ, khiến người khác hiểu rằng khó mà tiếp cận, gần gũi.
Bởi vậy đối với người Thiên Lương tọa mệnh, làm danh sĩ tốt hơn, điều này mới là tính chất cơ bản của Thiên Lương.
Chú thích:
(*) Ấm : bóng cây che mát. Được nhờ ơn của người khác đều gọi là ấm.
(**) Tuệ Tâm Trai Chủ : sáng lập "TânThuyên phái", một trong những phái tử vi truyền thống (giống như Vương Đình Chi và Liễu Vô Cư Sỹ), một tác giả viết khá nhiều sách Tử Vi, cống hiến cho làng lý số rất nhiều. Một số tác phẩm như: "Như hà thôi toán mệnh vận"- Tử vi đẩu sổ dữ Tứ hóa tinh ; Tử vi đẩu sổ xu cát tị hung pháp ; Tửvi đẩu sổ khai phát tiềm năng...
(***) "dâm oa đãng phụ" : là gái đẹp (oa) thì dâm loàn, là phụ nữ có chồng thì phóng đãng bất chính.
 
Last edited by a moderator:

mimi1986

Điều hành cấp cao
9. Thiên Cơ thủ mệnh là mẫu người linh động

Sao Thiên Cơ được liệt vào "Nam đẩu đệ nhất tinh" Bản chất thuộc âm, hóa khí là thiện tinh. Tính chất cơ bản Thiên Cơ chủ về động, tính động của Cơ, Vương Đình Chi đã nói qua, cũng không có ý nói biến động trong cuộc sống, mà là chỉ linh động từ phương diện quan hệ giao thiệp đến tinh thần, hoặc chủ linh động trong làm việc đầu óc.

Cổ nhân đối với Thiên Cơ đánh giá không cao. Chỉ khi cùng Thiên Lương hội hợp, hơn nữa gặp được Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc thì mới thừa nhận là "Văn vi thanh hiển, vũ vi trung lương" cách. Vương Đình Chi cho rằng đánh giá này, chính yếu là sao Thiên Lương hội hợp đến, bởi vì sao Thiên Lương được cho là sao thanh hiển mà trung lương.

Ngoại trừ cách cục này ra, Thiên Cơ chủ "thoái tổ tự hưng" (tổ nghiệp bị suy thoái mà tự mình làm hưng thịnh), chủ tha hương phiêu bạt; ở nữ mệnh tất "Tuy phú quý diệc bất miễn dâm dật" (Tuy phú quý cũng khó tránh dâm dật), gặp sát tinh tất "Dâm tiện thiên phòng xướng tì chi mệnh , phủ tắc hình phu khắc tử" (là mệnh làm vợ nhỏ hay nữ dâm dật, xướng tỳ, nếu không cũng hình phu khắc tử). Chỉ nói vậy mà không chỉ ra căn cứ.

Ngày nay đánh giá sao Thiên Cơ tuyệt không quá xấu như lời cổ nhân, nguyên nhân tại vì hoàn cảnh xã hội cổ kim khác nhau rất nhiều. Thời cổ trọng đôn hậu, không trọng biến; trọng an phận thủ thành, không trọng cải cách, bởi vậy nói tính chất Thiên Cơ ứng biến, linh hoạt, sở trường cải cách, khá dùng đầu óc vào giải quyết sự việc.

Tại Đẩu số, có cách cục "Cơ Nguyệt Đồng Lương", tức là Thiên Cơ thủ mệnh ở hai cung dần thân, hội hợp ba sao Thái Âm, Thiên Đồng, Thiên Lương. Cổ quyết thuyết: "Cơ Nguyệt đồng lương tác lại nhân", nói cách khác, mệnh cục này là người đao bút (chuyên viết đơn), soạn kế sách công, cho nên thích hợp vào vai trò đao bút lại (người phụ trách việc văn thư)."Lại" không bằng "Quan", bởi vì lại chỉ là kẻ dưới tay quan để sai khiến, vì như vậy nhìn tổng thể cổ nhân đánh giá Thiên Cơ không bằng quan đứng đầu là người được xã hội thừa nhận quang minh chính đại.

Xã hội ngày nay, Thiên Cơ có ý nghĩa ở chỗ càng linh động càng dễ hòa nhập vào xã hội, đồng thời khi là người làm việc cho chính phủ, mặc dù là thân phận lại nhân (công chức), địa vị xã hội cũng không được cao, vì thế ta nên đánh giá cao người có Thiên Cơ thủ mệnh. Cũng như càng phải chú ý đến họ bởi vì lý do đầu óc họ luôn năng động, có khả năng thích ứng nhanh với thời đại công nghệ, không thể đánh giá thấp được.
 

mimi1986

Điều hành cấp cao
10. Cơ Lương thủ mệnh có ba loại biến cục
Thiên Cơ tọa mệnh có một biến cục riêng là Thiên Cơ Thiên Lương đồng cung. Tại cổ thư đối với mệnh cách này có 3 câu bình luận:
-"Cơ Lương đồng cung Thìn Tuất, cao nghệ tùy thân"
-"Cơ lương thìn tuất gia cát diệu , phú quý từ tường" (Cơ Lương Thìn Tuất hội hợp thêm cát tinh, người hiền lành hưởng phú quý)
-"Cơ Lương thủ mệnh gia Hình Kỵ, thiên nghi tăng đạo" (Cơ Lương thủ mệnh thêm Thiên Hình Hóa Kỵ, nên theo đường tu hành hay đạo sỹ)

Ba đoạn bình luận này có thể thấy được cách Cơ Lương thủ mệnh, có biến hóa rấtlớn.
Phân tích nguồn gốc đưa đến 3 câu phú này kỳ thật là xem xét chỉ từ hai tinh diệu này, so sánh xem sao nào (tác động) mạnh, ví như nếu Thiên Cơ cường, vậyđó là mệnh "cao nghệ tùy thân"; trái lại, nếu lực Thiên Lương cường,phùng cát diệu, tất "phú quý từ tường"; phùng Hình Kỵ tác động đến Thiên Cơ một cách mạnh mẽ, phát huy triệt để tính chất Thiên Cơ, cho nên dễ vào chốn không môn (cửa Phật).

Tọa Thìn Tuất hai cung, vốn là Thiên la địa võng, lực linh động của Thiên Cơ bị ảnh hưởng, bởi vậy chỉ có thể phát huy lực phân tích của Cơ mà thôi. Lại có người hiểu biết tra vấn, rất nhiều công trình sư cùng với giảng viên đều là loại mệnh cục này (đương nhiên không phải loại thường lên giọng chỉ biết phunnước miếng) có thể thấy được loại mệnh cục này tuyệt đối không tầm thường. Cổ nhân gọi là "cao nghệ tùy thân", thời hiện đại khả dĩ chỉ về"chuyên môn học vấn".

Nhưng tính chất Thiên Lương lại có khả năng ảnh hưởng đến Thiên Cơ thành tâm địa hiền lành, trầm mặc ít nói, phẩm tính thanh cao, (từ một người linh độngthành người bị động) nên khiến mệnh cục khá kém, rơi vào trường hợp thợ thủ công, bản thân cũng nghiên cứu kỹ thuật rất tốt, thường đạt được nhiều sự tâm đắc. Hoàn một nổi, loại người này có 1 đặc điểm là không chịu đem những điềutâm đắc truyền cho người khác, ngay cả đồ đệ cũng không chịu truyền thụ, vì lẽ đó dù tâm địa thiện lương, nhưng lại thường dễ dàng chiêu oán.

Nếu như gặp Thiên Hình Hóa Kỵ, Thiên Cơ hoàn toàn bị thụ chế, lúc này lực lượng Thiên Lương phát huy cực độ, bản thân sẽ thiên về "hoang tưởng",thích suy tư vấn đề triết học, vì lẽ đó cổ nhân cho là "thiên nghi tăng đạo", kỳ thật thời hiện đại, điều này cũng không hiện thực lắm vì khôngphải mệnh cục một vị triết gia nào cũng nhất định xuất gia.

Cơ Lương phối hợp, tinh diệu đã nhược, nhất định không nên gặp sát tinh, nếukhông xử sự dễ lâm cảnh rối tinh rối mù, hơn nữa tâm linh lại hư không, không có gì để gởi gắm niềm tin.
 

mimi1986

Điều hành cấp cao
11. Liêm Trinh khó phân định nhất

Ở "Tử vi Đẩu số", sao Liêm Trinh rất khó phán đoán, đại khái cổ nhân cũng cảm thấy như vậy nên thường trọng Liêm Trinh đồng cung hoặc hội hợp với các tinh diệu khác, mà định thuyết pháp: "xúc chi bất khả giải kỳ họa,phùng chi bất khả trắc kỳ tường" (đụng phải nó không thể giải được họa, gặp được nó không lường hết được phúc), nói cách khác, sao này thủ mệnh cát hung họa phúc vô định, việc luận đoán cần lấy trọn các tinh diệu phối hợp tam phương mới chuẩn.

Trong Cổ ca cũng có rất nhiều thuyết pháp cát hung vô định, như "LiêmTrinh chủ hạ tiện chi cô hàn", "Liêm Trinh sát bất gia , thanh danh viễn bá" (Liêm Trinh không gia sát tinh, tiếng lành đồn xa), "LiêmTrinh Thất Sát, lưu đãng thiên nhai" (Liêm Trinh Thất Sát phiêu lãng chân trời xa xăm), "Liêm Trinh Thất Sát, phản vi tích phú chi nhân" (Liêm Trinh Thất Sát lại là người tích cóp làm giàu), "Thất Sát Liêm Trinh đồng vị, lộ thượng mai thi" (Thất Sát Liêm Trinh đồng cung là cách chết đường). Trong đó riệng cách cục Liêm Sát đồng cung, thuyết pháp mâu thuẫn hơn cả.

Nếu theo cách nhìn của Trung châu phái Liêm Trinh có nhiều biến cách nhất, sao này mặc dù có thuyết pháp "thứ đào hoa" nhưng vị tất con người LiêmTrinh thủ mệnh cứ là đào hoa, hoặc cứ có tính cách dâm đãng, song, có một chút tính chất cơ bản có thể dám khẳng định đó chính là bản thân thường có điểm khinh bạc, không nghiêm túc, nhưng nội tâm lại khá chủ quan, không dễ dàng hòa hợp cùng người khác khi chung sống.

Tham Lang là "chính đào hoa", Liêm Trinh là "thứ đào hoa", cùng là đào hoa cả nhưng Tham Lang thủ mệnh lại lả lướt khéo đưa đẩy, còn Liêm Trinh thì khác lại hơi nghiêng về nói năng tùy tiện, bạ đâu nói đấy, bằng hữu nghiên cứu Đẩu số, điều này phải nên phân biệt. Nhưng Liêm Trinh tuy không cẩn ngôn,nhưng có khiếu hài hước, hóm hỉnh, trong khi giao tế thấy có người hứng thúđóng vai một chú hề nhỏ để gây cười, tức người đó rất có thể là Liêm Trinh thủ mệnh. Nhưng vì Liêm Trinh cũng có tính chất "ngạnh cảnh" (cứng đầu cứng cổ) cho nên bạn chớ thấy người này vui vẻ, hài hước mà cho rằng trong công việc bàn chuyện với anh ta dễ dàng tốt đẹp, trên thực tế, người này rất có khả năng giải quyết công việc chung, mọi việc nề nếp ngăn nắp, đâu ra đấy (làm ra làm, chơi ra chơi).

Vì lẽ đó người có mệnh cục này, mừng nhất là "Liêm Trinh Thất Sát đồng cung , kiến Lộc bất gia sát" (Liêm Trinh Thất Sát đồng cung, gặp được Lộc mà ko gặp sát tinh xung phá), ở xã hội hiện đại, ngườicó mệnh cục này có thể đảm nhiệm công việc công trình sư, nhân viên kỹ thuậthoặc nhân viên công vụ, họ làm việc nề nếp ngăn nắp đâu ra đấy,...rất phù hợp tính chất cơ bản của Liêm Trinh, thậm chí đi vào kinh doanh, kiến trúc cũng rất hợp, bởi vì Liêm Trinh cũng có điểm thành tựu về mặt nghệ thuật.
 
Top