iHi
Moderator
(nguồn Kimtubinh.net, tác giả Kimcuong)
Vì đây là bài hỏi đáp cho người mới nhập môn Tử bình nên iHi chỉ chép lại những ý trọng tâm về luận Vượng-Suy-Cường-Nhược. Hy vọng nó giúp ích cho các bạn muốn thâm nhập môn Tử bình:
Các tác giả cận đại cho rằng luận Vượng Nhược là luận nhật chủ, như đạt các tiêu chí đắc lệnh, đắc địa, được phò, được trợ là thân vượng hay cường, ngược lại là thân suy hay nhược. Cách này là chỉ nhắm vào nhật chủ, vì cho rằng khi nhật chủ vượng thì gánh được Tài Quan, không vượng thì dụng Kiêu Ấn, Tỉ Kiếp.
Điều này làm ta hiểu rằng trong bát tự chia ra làm "2 phe", một phe là "ta" (Tỉ kiếp và Kiêu ấn) và phe kia là "Thực, Tài, Quan" rõ rệt. Thập thần Tài hay Quan cũng được đại biểu là vợ, cha mẹ, chồng, con...v.v... nên đột nhiên ngày giờ sinh của ta, trong đó không chỉ có ta mà còn có đủ mặt người thân, bạn bè, chủ tớ trong đó. Nhiều người lại cứ ngỡ rằng Tài chỉ là Tiền bạc, hoặc Quan chỉ là chức phận.
Vấn đề này hiểu sâu xa hơn chính là hiểu về quan hệ ứng xử của ta đối với các khía cạnh của đời sống, như ta đối với các quan hệ khắc ta hay giúp ta như thế nào. Bát tự tứ trụ với 8 chữ năm tháng ngày giờ của ta thật sự chỉ là 1 người duy nhất, đấy chính là Ta. Luận tứ trụ là luận Tinh Thần, Tâm Tư, Khả Năng của mình, chứ không phải chỉ luận TA (Tỉ Kiếp) vượng hay nhược, còn Tài Quan Thực là người nào khác! Tóm lại nên nhận xét về Ngũ hành là tốt nhất, vì quan hệ ngũ hành là quan hệ có liên đới một cách tổng thể, không có hành nào độc lập mà tự duy trì được. Từ đó, sau khi nắm vững ngũ hành, suy ra quan hệ thập thần thì đỡ bị hiểu lầm cách suy luận về tứ trụ, mà cụ thể là Vượng hay Nhược.
Ở các tài liệu xưa như Tử Bình Chân Thuyên hay Trích Thiên Tủy, ta đọc kỹ lại sẽ thấy khi luận Vượng Nhược là luận cả ngũ hành/thập thần quan hệ với nhau, tức là luận thiên can trụ ngày trước đối với tháng sinh, sau là luận toàn bộ những gì hiển hiện lên tứ trụ, kể cả những can chi không có mặt trong tứ trụ. Các bạn hãy đọc lại Chương 6-TBCTBC và chương 17, 18 Trích Thiên Tủy sẽ nhận ra ngay, cũng như chương phụ mục "Tứ thời nghi kị" là căn bản cho vấn đề Vượng hay Nhược của tứ trụ.
Vậy muốn xét vượng nhược của tứ trụ, chú ý các điểm sau:
1- Sinh Vượng Tử Tuyệt của thiên can trong mùa sinh, trước là nhật chủ, sau là các thiên can khác;
2- Ngũ hành trong tứ thời;
3- Tương tác của địa chi với nhau làm ảnh hưởng đến thiên can, tức Khí lộ ra, mà cũng chính là ngũ hành nói chung của cả Can Chi;
4- Tiến khí, thoái khí của đại vận.
Thí dụ chỉ nói về Giáp nhật chủ, nam, sinh tháng Dần:
1- tọa lâm quan
2- tiết Lập xuân, Mộc cần Hỏa khí, tức là hỉ Hỏa Thực Thương thấu can, hỉ Thủy Ấn nhưng không nên nhiều và tàng ẩn
3- Dần, Tị Ngọ không bị xung, Giáp cũng không bị Canh khắc hoặc bị Kỉ hợp
4- vận tiến khí là vận chuyển sang phương nam (Mão, Thìn, Tị, Ngọ), thoái khí là vận phương bắc (Sửu, Tí, Hợi)
Chỉ nói về nhật chủ Giáp như trên thì rõ là "thân vượng", nhưng sau đó tùy vào tứ trụ mà luận các thiên can địa chi khác ảnh hưởng đến Giáp nhật chủ thế nào. Có thể từ vượng chuyển sang nhược, quá vượng hay quá suy, hoặc suy mà lại có cứu ứng thì chuyển sang bình hòa. Mà lại mới chỉ nói về nam, chưa luận về nữ.
Trên đây quả là mới nói đến phần "nhập môn", tức là phải học thuộc lòng:
- Vòng trường sinh của thiên can
- Ngũ hành trong bốn mùa
- Tương tác Hợp Xung Hình Hại Phá của địa chi, tương tác Khắc chế của thiên can
- Đại vận tiến hay lùi
Từ những căn bản này mới có thể luận các biệt lệ, thay đổi, biến hóa khác.
Vì đây là bài hỏi đáp cho người mới nhập môn Tử bình nên iHi chỉ chép lại những ý trọng tâm về luận Vượng-Suy-Cường-Nhược. Hy vọng nó giúp ích cho các bạn muốn thâm nhập môn Tử bình:
Các tác giả cận đại cho rằng luận Vượng Nhược là luận nhật chủ, như đạt các tiêu chí đắc lệnh, đắc địa, được phò, được trợ là thân vượng hay cường, ngược lại là thân suy hay nhược. Cách này là chỉ nhắm vào nhật chủ, vì cho rằng khi nhật chủ vượng thì gánh được Tài Quan, không vượng thì dụng Kiêu Ấn, Tỉ Kiếp.
Điều này làm ta hiểu rằng trong bát tự chia ra làm "2 phe", một phe là "ta" (Tỉ kiếp và Kiêu ấn) và phe kia là "Thực, Tài, Quan" rõ rệt. Thập thần Tài hay Quan cũng được đại biểu là vợ, cha mẹ, chồng, con...v.v... nên đột nhiên ngày giờ sinh của ta, trong đó không chỉ có ta mà còn có đủ mặt người thân, bạn bè, chủ tớ trong đó. Nhiều người lại cứ ngỡ rằng Tài chỉ là Tiền bạc, hoặc Quan chỉ là chức phận.
Vấn đề này hiểu sâu xa hơn chính là hiểu về quan hệ ứng xử của ta đối với các khía cạnh của đời sống, như ta đối với các quan hệ khắc ta hay giúp ta như thế nào. Bát tự tứ trụ với 8 chữ năm tháng ngày giờ của ta thật sự chỉ là 1 người duy nhất, đấy chính là Ta. Luận tứ trụ là luận Tinh Thần, Tâm Tư, Khả Năng của mình, chứ không phải chỉ luận TA (Tỉ Kiếp) vượng hay nhược, còn Tài Quan Thực là người nào khác! Tóm lại nên nhận xét về Ngũ hành là tốt nhất, vì quan hệ ngũ hành là quan hệ có liên đới một cách tổng thể, không có hành nào độc lập mà tự duy trì được. Từ đó, sau khi nắm vững ngũ hành, suy ra quan hệ thập thần thì đỡ bị hiểu lầm cách suy luận về tứ trụ, mà cụ thể là Vượng hay Nhược.
Ở các tài liệu xưa như Tử Bình Chân Thuyên hay Trích Thiên Tủy, ta đọc kỹ lại sẽ thấy khi luận Vượng Nhược là luận cả ngũ hành/thập thần quan hệ với nhau, tức là luận thiên can trụ ngày trước đối với tháng sinh, sau là luận toàn bộ những gì hiển hiện lên tứ trụ, kể cả những can chi không có mặt trong tứ trụ. Các bạn hãy đọc lại Chương 6-TBCTBC và chương 17, 18 Trích Thiên Tủy sẽ nhận ra ngay, cũng như chương phụ mục "Tứ thời nghi kị" là căn bản cho vấn đề Vượng hay Nhược của tứ trụ.
Vậy muốn xét vượng nhược của tứ trụ, chú ý các điểm sau:
1- Sinh Vượng Tử Tuyệt của thiên can trong mùa sinh, trước là nhật chủ, sau là các thiên can khác;
2- Ngũ hành trong tứ thời;
3- Tương tác của địa chi với nhau làm ảnh hưởng đến thiên can, tức Khí lộ ra, mà cũng chính là ngũ hành nói chung của cả Can Chi;
4- Tiến khí, thoái khí của đại vận.
Thí dụ chỉ nói về Giáp nhật chủ, nam, sinh tháng Dần:
1- tọa lâm quan
2- tiết Lập xuân, Mộc cần Hỏa khí, tức là hỉ Hỏa Thực Thương thấu can, hỉ Thủy Ấn nhưng không nên nhiều và tàng ẩn
3- Dần, Tị Ngọ không bị xung, Giáp cũng không bị Canh khắc hoặc bị Kỉ hợp
4- vận tiến khí là vận chuyển sang phương nam (Mão, Thìn, Tị, Ngọ), thoái khí là vận phương bắc (Sửu, Tí, Hợi)
Chỉ nói về nhật chủ Giáp như trên thì rõ là "thân vượng", nhưng sau đó tùy vào tứ trụ mà luận các thiên can địa chi khác ảnh hưởng đến Giáp nhật chủ thế nào. Có thể từ vượng chuyển sang nhược, quá vượng hay quá suy, hoặc suy mà lại có cứu ứng thì chuyển sang bình hòa. Mà lại mới chỉ nói về nam, chưa luận về nữ.
Trên đây quả là mới nói đến phần "nhập môn", tức là phải học thuộc lòng:
- Vòng trường sinh của thiên can
- Ngũ hành trong bốn mùa
- Tương tác Hợp Xung Hình Hại Phá của địa chi, tương tác Khắc chế của thiên can
- Đại vận tiến hay lùi
Từ những căn bản này mới có thể luận các biệt lệ, thay đổi, biến hóa khác.