[h=1]
IV. BÓI GIÁP CỐT VÀ GIÁP CỐT VĂN[/h]
Trong hai chữ
bốc phệ,
bốc 卜 tức là phép bói rùa (bói giáp cốt) và
phệ 筮 là phép bói bằng cỏ thi. Phép bói giáp cốt có từ đời Thương.
Giáp 甲 ở đây là
quy giáp 龜甲 (mai rùa: tortoise shell, tortoise carapace). Cốt ở đây là xương bả vai (scapula) cuả thú vật (bò hoặc nai). Theo Bản Thảo Cương Mục, mai rùa để bói là của loài
thủy quy 水龜 (rùa nước), loài này rất giống một loài rùa có tên khoa học là reevesii. Nhưng các nhà khảo cổ khảo sát những mai rùa đào được ở An Dương lại cho rằng đó là loài
địa quy 地龜 (rùa đất, land tortoise), tên khoa học là pseudocadia anyangensis nay đã tuyệt chủng.
Cách bói bằng mai rùa và xương thú được gọi là
bốc卜. Chữ
bốc gồm một nét dọc (tung) và một nét ngang (hoành) tượng trưng nét nứt trên mai rùa sau khi bị hơ nóng (Chích quy chi hình, quy triệu chi tung hoành dã 炙龜之形龜兆之縰橫也).
[23] Nguyễn Hiến Lê hiểu quy giáp là
yếm rùa chứ không phải mai rùa (có lẽ vì yếm rùa dễ nứt hơn?)
[24] Lưu Ngọc Kiến 劉玉建 trong
Trung Quốc Cổ Đại Quy Bốc Văn Hóa 中國古代龜卜文化
[25] đã trưng dẫn nhiều hình ảnh về những mảnh quy giáp bao gồm cả mai rùa (
bối giáp 背甲) lẫn yếm rùa (
phúc giáp 腹甲). Thực tế người ta còn đào được những mảnh
giáp kiều 甲橋 (phần hông tiếp giáp
bối giáp và
phúc giáp) có khắc chữ.
Lionel Charles Hopkins
[26] (1854-1952) cho rằng chữ
bốc 卜 giống hình xương bả vai của loài thú. Còn chữ
chiêm 占
(giải đoán) gồm chữ
khẩu 口 (miệng) và
bốc 卜 (bói), ngụ ý dùng lời nói để giải đoán từ những mảnh xương đó.
[27] Léon Wieger giải thích
chiêm là bói để hỏi những gì mà ta nghi hoặc (bốc dĩ vấn nghi dã 卜以問疑也). Theo từ điển Từ Hải,
bốc là vết nứt ngang dọc trên mai rùa bị nung nóng. Cổ nhân muốn dự đoán công việc sẽ tốt xấu ra sao, đa số thường nung nóng mai rùa để tìm vết nứt mà đoán.
Nhưng tại sao lại dùng mai rùa? Linh mục Larre trong bài thuyết trình tại Trung Tâm Văn Hóa Pháp (Saigon, 1965) về
Đạo Xử Kỷ Tiếp Vật Trong Kinh Dịch (Le savoir vivre dans le Livre des Mutations) bảo cổ nhân dùng mai rùa vì rùa là một vũ trụ thu nhỏ. Mai rùa tượng trưng cho vòm trời, bốn chân tượng trưng cho đất. Còn cỏ thi (l’achillée millefeuille) là cỏ thiêng có thể cảm ứng được những biến dịch trong vũ trụ. Charles Poncé thì bảo rùa là vật mang sự minh triết (the carrier of wisdom), không những biết được những bí mật dưới đáy biển mà còn ôm ấp những bí mật ấy trong bụng. Rùa sống được dưới nước lẫn trên đất, nó dung hòa hai
hành tương khắc trong ngũ hành 五行 là thủy 水 (nước) và thổ 土 (đất).
[28]
Thật ra người Trung quốc cổ đại có nhiều phép bói tùy theo nhóm dân tộc. Hán tộc dùng
cốt bốc骨卜
(bói xương), quy bốc龜卜
(bói rùa), thi phệ 蓍筮
(bói cỏ thi). Đó là ba phép bói chính thống được sử dụng trong ba vương triều : Hạ 夏, Thương 商, và Chu 周. Các dân thiểu số lại có các phép bói riêng như: tộc Khổ Thông 苦聰 bói bằng cỏ (thảo), trứng gà (kê đản); tộc Ngõa 佤 (nay chủ yếu phân bố ở tỉnh Vân Nam) bói bằng gan trâu, gan bò (ngưu can), xương gà (kê cốt); tộc Lê 黎 (nay ở Quảng Đông) bói bằng gà (kê), đá (thạch), nắm bùn (nê bao); tộc Cảnh Pha 景頗 (nay ở Vân Nam) bói bằng tre trúc (trúc); tộc Lật Túc 傈僳 (đọc là
lisu, nay ở tỉnh Vân Nam) bói bằng dao (đao), vỏ sò vỏ ốc (bối xác); tộc Di 彝 (nay ở Vân Nam, Tứ Xuyên, Quý Châu) bói bằng xương bả vai của con dê (dương kiên giáp cốt 羊 肩 胛 骨); tộc Khương 羌 (nay ở Tứ Xuyên) bói bằng trứng gà (kê đản), lông dê (dương mao), v.v...
[29] Điều này chính Tư Mã Thiên cũng xác nhận: «Tam vương bất đồng quy, tứ di các dị bốc.» 三王不同龜四夷各異卜 (
Sử Ký, Quy sách liệt truyện 龜策列傳). Hán tộc sùng bái rùa vì rùa là một trong bốn linh vật như Lễ Ký đã xác định: «Hà vị chi tứ linh? Lân, phụng, quy, long vị chi tứ linh.» 何謂之四靈麟鳳龜龍謂之四靈
(Bốn linh vật là gì? Lân, phượng, rùa và rồng được gọi là tứ linh) (Lễ Ký 禮記, Lễ vận 禮運). Trong tứ linh chỉ có quy là có thật còn ba linh vật kia là huyền thoại, chỉ nghe nói, chưa ai thấy. Quy đứng đầu tứ linh. Theo Vương Hữu Tam 王友三
[30] sùng bái tứ linh, nhất là sùng bái rùa là một hình thức của tôn giáo nguyên thủy của Trung Quốc.
Lưu Ngọc Kiến
[31] cho rằng sùng bái rùa còn liên quan đến sùng bái
đồ đằng 圖騰
(thờ vật tổ, totemism, đồ đằng phiên âm chữ
totem) và sùng bái
sinh thực khí (cult of fertility). Lưu Ngọc Kiến chịu ảnh hưởng của Quách Mạt Nhược 郭沫若, trích dẫn tác phẩm
Trung Quốc Cổ Đại Xã Hội Nghiên Cứu của họ Quách rằng: «Căn để của bát quái mà chúng ta có thể thấy rõ là dấu vết của sự sùng bái sinh thực khí. Nét vạch liền tức là
nam căn, nét vạch đứt tức là
nữ âm. Vì thế mà diễn ra thành quan niệm nam nữ, phụ mẫu, âm dương, cương nhu, và thiên địa.» Quả thực nền văn hoá
phong nhiêu (hay
phồn thực: fertility, fécondité, Fruchtbarkeit) là một hình thức phổ biến của tôn giáo nguyên thủy trên khắp thế giới. Người cổ đại thờ những linga (nam căn), yoni (nữ âm), thờ những nữ thần sinh sản và phồn thịnh (Fruchtbarkeitsgöttin). Thuyết của họ Quách có thể đúng. Trên cơ sở đó Lưu Ngọc Kiến liên tưởng đến đầu rùa (quy đầu) và những
đào tổ 陶祖 hay
thạch tổ 石祖 tức là những nam căn (sinh thực khí nam) bằng gốm hoặc bằng đá khai quật được ở Thiểm Tây, Cam Túc, Sơn Đông, Quảng Tây, Hồ Bắc, Hồ Nam, v.v. Chúng được giám định thuộc giai đoạn cuối của nền văn hóa Ngưỡng Thiều 仰韶文化 có 5000 năm tuổi. Như vậy sự sùng bái nam căn chứng tỏ vào thời kỳ này xã hội Trung Quốc cổ đại đã được chuyển từ chế độ mẫu hệ sang phụ hệ và sự sùng bái sinh thực khí nam đã ở giai đoạn đỉnh thịnh.
Sự sùng bái rùa có liên quan sự sùng bái sinh thực khí là một thuyết mới mẻ và táo bạo của họ Lưu. Nhưng bảo rằng sự sùng bái rùa có liên quan đến sùng bái đồ đằng 圖騰 thì chưa thuyết phục. Mặc dù
Sơn Hải Kinh 山海經 tiết lộ rất nhiều về một số hình thức của tôn giáo nguyên thủy tại Trung Quốc như sùng bái linh vật, sùng bái đồ đằng (totem). Đặc điểm của đồ đằng là tính chất
huyết duyên 血緣 hay
thân duyên 親緣 của vật tổ. Vật tổ là bất kỳ một loại động vật, thực vật, hay vô sinh vật được một bộ tộc sùng bái như tổ tiên hay thân nhân. Đó là tính chất huyết duyên hay thân duyên. Người trong bộ tộc sùng bái đến mức sợ hãi vì chính vật tổ sẽ phù hộ cho cuộc sống của họ. Chính sùng bái đồ đằng (totemism) phát triển thành thờ cúng gia tiên (ancestor worship) về sau này.
[32] Về nguyên tắc, sát thương hay ăn thịt vật tổ là một đại cấm kỵ. Nhưng trong thực tế người cổ đại vẫn giết rùa vì hai mục đích: lấy quy giáp làm vật bói và làm tiền tệ. Thời tiên Tần, mai rùa là một thứ tiền. Quẻ Tổn 損 của Kinh Dịch nói: «Thập bằng chi quy.» 十朋之龜 tức là số tiền gồm 20 xâu mai rùa (hai xâu là một
bằng 兩串為一朋).
[33] Vậy thì bảo rùa là một vật tổ của người Trung quốc cổ đại là không thông. Tôi cho rằng người ta sùng bái rùa vì ý nghĩa tượng trưng (symbolic meaning) của nó hơn là chính bản thân nó.
Lưu Ngọc Kiến giải thích nguyên do sự sùng bái rùa còn ở mấy điểm mà tôi tóm tắt như sau:
(1)
Quy được xem là vật trân bảo, tầm cỡ quốc bảo. Kinh Thư (Hạ Thư-Vũ Cống) có câu : «Cửu Giang nạp tích đại quy.» 九江納錫大龜 (
Dân Cửu Giang phải cống nạp rùa lớn). Khổng An Quốc nói: «Xích nhị thốn viết đại quy, xuất ư Cửu Giang thủy trung, quy bất thường dụng, tích mệnh nhi nạp chi.» 尺二寸曰大龜出於九江水中龜不常用錫命而納之 (
Rùa một thước hai tấc gọi là đại quy, phát xuất từ Cửu Giang,[34] rùa này người ta không thường dùng, mà theo lệnh phải cống nạp). Kinh Thư (Chu Thư-Đại Cáo) có câu: «Ninh Vương di ngã đại bảo quy, thiệu thiên minh tức mệnh.» 寧王遺我大寶龜紹天明即命 (
Vua Ninh Vương [tức là Vũ Vương] di tặng cho ta con rùa lớn rất quý báu dùng để xem mệnh Trời). Lễ Ký(chương Lễ Khí) chép: «Chư hầu dĩ quy vi bảo.» 諸侯以龜為寶
(Chư hầu xem rùa là vật báu). Khổng Dĩnh Đạt chú sớ: «Chư hầu dĩ quy vi bảo giả, chư hầu hữu bảo thổ chi trọng nghi tu chiêm tường cát hung, cố đắc dĩ quy vi bảo dã.» 諸侯以龜為寶者諸侯有保土之重宜須占詳吉凶故得以龜為寶也 (
Chư hầu xem rùa là vật báu vì việc quan trọng là bảo vệ lãnh thổ, nên cần xem bói để rõ việc tốt xấu. Vì thế khi được rùa, xem đó là vật báu).
(2)
Quy là biểu tượng của sự tài phú. Hán Thư (chương Thực Hóa Chí 食貨誌) nói: «Thực vị nông thực gia cốc khả thực chi vật. Hóa vị bố bạch khả ý, cập kim đao quy bối, sở dĩ phân tài bố lợi thông hữu vô dã. Nhị giả sinh dân chi bản, hưng tự Thần Nông chi thế... Thực túc hóa thông, nhiên hậu quốc thực dân phú, nhi giáo hóa thành.» 食謂農殖嘉谷可食之物貨謂布帛可衣及金刀龜貝所以分財布利通有無也而者生民之本興自神農之世… 食足貨通然後國實民富而教化成 (
Thực phẩm là những thứ nhà nông trồng trọt cày cấy và ăn được. Hóa là những thứ vải bố vải lụa có thể mặc cho đến vàng, dao, rùa, vỏ sò nhằm phân bố tài lợi và lưu thông vật chất giữa chỗ có và chỗ không. Cả hai thứ ấy là điều cơ bản của đời sống dân chúng. Chúng hưng thịnh từ đời Thần Nông về sau... Lương thực đầy đủ, hàng hóa lưu thông thì nước mạnh dân giàu, và rồi việc giáo hóa dân chúng mới thành tựu). Như vậy quy giáp ngoài việc dùng để bói còn là một hàng hóa giá trị, thậm chí được sử dụng là một thứ
tiền (hóa tệ 貨幣
). Dân đời Thương đã qua giai đoạn sơ khai của nền kinh tế hàng đổi hàng (barter). Họ đã biết dùng tiền, tức là những vỏ sò vỏ ốc (bối xác) và mai rùa (quy giáp). Kinh Dịch, hào lục ngũ của quẻ Tổn và hào lục nhị của quẻ Ích đều nói: «Thập bằng chi quy.» 十朋之龜 (Số tiền gồm có 10 bằng) [hai
bối 貝 là một
bằng 朋, có người bảo 10
bối là một
bằng].
Thuyết Văn Giải Tự 說文解字 của Hứa Thận 許慎 nói: «Cổ giả hóa bối nhi bảo quy, Chu nhi hữu bạch, chí Tần phế bối hành tiền.» 古者貨貝而寶龜周而有帛至秦廢行錢 (
Người xưa dùng vỏ sò và mai rùa làm hóa tệ, đời Chu dùng lụa làm hóa tệ, đến đời Tần vỏ sò bị bỏ đi và lưu hành tiền tệ).
(3)
Quy có tuổi thọ cao, biến hóa khôn lường nên linh vật này được dùng để bói. Luận Hành của Vương Sung, chương Bốc Phệ, có ghi chép cuộc đối thoại giữa Khổng Tử và cao đệ là Tử Lộ: «Tử Lộ vấn Khổng Tử viết: Trư kiên dương bác khả dĩ đắc triệu, hoan vĩ cao mao khả dĩ đắc số, hà tất dĩ thi quy? Khổng Tử viết: Bất nhiên. Cái thủ kỳ danh dã. Phù thi chi vi ngôn kỳ dã, quy chi vi ngôn cựu dã. Minh hồ nghi chi sự, đương vấn kỳ cựu dã.» 子路問孔子曰豬肩羊膊可以得兆雚葦藳芼可以得數何必以蓍龜孔子曰不然蓋取其名也夫蓍之為言耆也龜之為言舊也明狐疑之事當問耆舊也
(Tử Lộ hỏi Khổng Tử rằng: Thưa Thầy, xương vai heo, xương bả vai dê đều có thể [hơ nóng để tìm vết nứt mà] bói; cỏ hoan, cỏ vĩ, cỏ cao và cỏ mao cũng có thế bói xem số mệnh, việc gì mà phải dùng cỏ thi và mai rùa? Khổng Tử đáp: Không phải như vậy. Ấy bởi vì cái tên của chúng.Nói chung, thi [cỏ thi] là gọi từ kỳ [bậc kỳ lão sống lâu],còn quy là gọi từ cựu [cố cựu, lâu đời]. Muốn hiểu rõ việc mình đang hồ nghi thì phải hỏi han người kỳ cựu vậy). Thuyết Văn Giải Tự bảo: «Quy, cựu dã.» 龜舊也 (
quy là xưa cũ). Đoàn Ngọc Tài chú: «Tức cửu tự dã. Lưu Hướng viết: Thi chi ngôn kỳ, quy chi ngôn cửu, quy thiên tuế nhi linh, thi bách kinh nhi thần, dĩ kỳ trường cửu, cố năng biện cát hung.» 即久字也劉向曰蓍之言耆龜之言久龜千歲而靈蓍百莖而神以其長久故能辨吉凶 (
Đó là chữ cửu [lâu dài] vậy. Lưu Hướng nói: Thi là ý nói chữ kỳ, quy là ý nói chữ cửu; quy sống lâu ngàn năm nên linh thiêng, cỏ thi có trăm cọng lá nên có thần, cho nên lấy cái sự trường cửu của thi quy mà đoán việc cát hung). Bão Phác Tử nói: «Thiên tuế linh quy, ngũ sắc cụ yên, như ngọc như thạch, biến hóa mạc trắc, hoặc đại hoặc tiểu, hoặc du ư liên diệp chi thượng, hoặc phục ư kỳ tùng chi hạ.» 千歲靈龜五色具焉如玉如石變化莫測或大或小或游於蓮葉之上或伏於芪叢之下 (
Rùa linh sống ngàn năm, có đủ ngũ sắc như ngọc như đá, biến hóa khôn lường, khi thì hóa to khi thì biến nhỏ, lúc thì bơi trên lá sen lúc lại nằm phục dưới đám cỏ kỳ).
Bản Thảo Cương Mục 本草綱目 của Lý Thời Trân 李時珍 nói: «Quy niên chí bách thiên, tắc cụ ngũ sắc, nhi hoặc đại hoặc tiểu, biến hoá vô thường.» 龜年至百千則具五色而或大或小變化無常 (
Tuổi của rùa có thể đến trăm ngàn năm, lúc ấy rùa có đủ năm sắc màu, khi hoá to lúc thu nhỏ, biến hóa không chừng).
(4)
Quy là biểu tượng tam tài: thiên địa nhân. Lưng rùa (quy bối) cong tròn lên, tượng trưng cho vòm trời; yếm rùa (phúc giáp) phẳng và có góc cạnh, tượng trưng cho đất, ứng với thuyết thiên viên địa phương (
trời tròn đất vuông). Sách
Chu Bễ Toán Kinh 周髀算經 nói: «Phương thuộc địa, viên thuộc thiên, thiên viên địa phương.» 方屬地圓屬天天圓地方 (
Vuông là thuộc tính của đất, tròn là thuộc tính của trời, nên trời tròn và đất vuông). Dịch Truyện (thuyết quái) nói: «Càn vi thiên, vi viên.» 乾為天為圓 (
Càn là trời, thì tròn). Lã Thị Xuân Thu 呂氏春秋 (thiên Viên Đạo 圓道) viết: «Thiên viên nhi địa phương, thánh vương pháp chi, sở dĩ lập thượng hạ.» 天圓而地方聖王法之所以立上下 (
Trời tròn mà đất vuông, bậc thánh vương noi theo đó mà ấn định phép tắc có trật tự trên dưới). Rùa theo truyền thuyết bị bà Nữ Oa 女媧 chặt chân làm cột chống trời,
Hoài Nam Tử 淮南子 (thiên Lãm Minh Huấn 覽冥訓) chép: «Vãng cổ chi thời, tứ cực phế, Cửu Châu liệt, vô bất kiêm phúc, địa bất chu tái, hỏa lam viêm nhi bất diệt, thủy hạo dương nhi bất tức, mãnh thú thực chuyên dân, chí điểu quắc lão nhược. Ư thị, Nữ Oa luyện ngũ sắc thạch dĩ bổ thương thiên, đoạn ngao túc dĩ lập tứ cực, sát hắc long dĩ tế Ký châu, tích lư khôi dĩ chỉ dâm thủy. Thương thiên bổ, tứ cực chính, dâm thủy hạc, Ký Châu bình, giảo trùng tử, chuyên dân sinh, bối phương châu, bão viên thiên.» 往古之時四極廢九州裂無不兼覆地不周載火爁炎而不滅水浩洋而不息猛獸食顓民鷙鳥攫老弱於是女媧鍊五色石以補蒼天斷鼇足以立四極殺黑龍以濟冀州積蘆灰以止淫水蒼天補四極正淫水涸冀州平狡蟲死顓民生背方州抱圓天 (
Ngày xa xưa, bốn trụ chống trời bị hư hoại, Cửu Châu [tức là Trung Quốc] bị đổ lở, không đâu mà không bị lật úp, đất không được che kín, lửa cháy hừng hực liên miên không tắt, nước ngập lụt mênh mông không ngưng, thú dữ ăn thịt dân lành, chim ưng hung ác quắp lấy người già cả ốm yếu. Cho nên bà Nữ Oa mới luyện đá năm màu để vá trời xanh, chặt chân rùa lớn làm bốn cột chống đỡ bầu trời, giết rồng đen cứu Ký Châu, chèn tro cỏ lư để ngăn nước lụt. Bầu trời xanh được vá lại, bốn trụ chống đỡ ngay ngắn, nước lụt rút khô đi, Ký Châu yên bình, thuồng luồng chết, dân lành sống, dựa lưng vào đất vuông ôm lấy bầu trời tròn). [Ngao là đại quy: rùa lớn]. Vậy rùa mang hình tượng trời và đất, chân rùa là cột chống đỡ bầu trời. Còn yếu tố thứ ba: nhân? Đó là thuyết sinh thực sùng bái liên hệ với đầu rùa (quy đầu 龜頭). Tóm lại rùa hết sức trân quý, hết sức linh thiêng không những vì sống lâu biết việc quá khứ vị lai mà còn vì bao gồm tam tài: Thiên-Địa-Nhân.
[35]