Bình giảng các cách trong tử vi

mimi1986

Điều hành cấp cao
O/ CÁC CÁCH ĐI TU

1. Những sao chỉ thiện tâm, đặc biệt là ở Phúc.

Thiên Đồng: sao này cũng phải miếu, vượng và đắc địa mói có ý nghĩa tốt như Thiên Lương. Thiên Đồng càng thiện khi hội tụ với Thiên Lương ở Dần, Thân: xu hướng bác ái nhờ đó càng thêm mạnh.

Thiên Quan, Thiên Phúc: chủ làm việc thiện, tư tưởng thiện, tinh thần cứu nhân độ thế, niềm tin nơi thiêng liêng, năng khiếu tu hành, triển vọng đắc đạo. Nếu cả hai sao này cùng hội chiếu vào Phúc, Mệnh hay Thân thì hiệu lực càng mạnh thêm.

Ân Quang, Thiên Quý: mang rất nhiều ý nghĩa phúc đức và trường thọ. Về mặt tính tình, người có Quang Quý là kẻ nhân hậu, từ thiện, thành tín với bạn bè, hiếu đễ với cha mẹ, chung thủy với vợ chồng, sùng đạo với thiêng liêng. Về mặt giải họa, Quang Quý biểu tượng cho sự phù hộ của thần linh, sự trợ lực của người đời trong nhiều phương diện. Về mặt siêu hình, Quang Quý hỗ trợ cho sự cảm thông với linh thiêng, tinh thần vọng đạo hết sức mạnh mẽ. Từ đó, năng khiếu đi tu có triển vọng thành đạt nhiều hơn kẻ khác.

Tứ Đức: đều chủ cái hạnh tốt đẹp của người thiện tâm, lấy nhân nghĩa lễ trí tín làm kim chỉ nam xử thế.

Hóa Khoa: cái hạnh của Hóa Khoa cũng tương tự như cái hạnh của Tứ Đức. Sự khác biệt khả dĩ là hạnh của Tứ Đức xuất phát từ tâm, trong khi cái hạnh của Hóa Khoa bắt nguồn từ văn hóa, học vấn mà có.


2. Những sao thất bại ở đời:

Những sao này thường đóng ở Mệnh, Thân có thể là ở Phúc cũng mang ý nghĩa tương tự: Tử Vi với sát tinh - Vũ Khúc với sát tinh - Thiên Phủ, Tuần, Triệt với sát tinh. Đây là phá cách gọi chung là "đế ngộ hung đồ" ngụ ý một kẻ thất bại, bất đắc chí ở trường đời.

Cơ, Lương, Kình, Đà, Linh, Hỏa, Tướng
Cơ, Lương, Tuần, Triệt với sát tinh
Xương, Khúc, Tuần, Triệt với sát tinh
bất hạnh nặng nề cho kiếp sống con người, thúc đẩy thế nhân đi tìm nguồn an ủi khác trong cõi đạo.

Tử, Tham với Không, Kiếp: ở Mão Dậu là người yếm thế, bi quan, có khiếu tu hành. Gặp thêm Không, Kiếp là bị nghiệp chướng ở đời.

Mệnh vô chính diệu gặp sát tinh - Sát tinh vây hãm các cung cường: cách của người dễ đi tu.

Hồng Loan, Thiên Không: kẻ thất bại vì tình, thường tìm sự đoạn tuyệt nghiệp tình để đi tu.


3. Những sao cô độc:

Cô Thần, Quả Tú - Đẩu Quân - Vũ Khúc: điển hình cho sự cô độc, nói rộng hơn là sự đơn thân, lẻ bóng trong gia đạo, dù đóng ở Mệnh, Thân, hay ở Phu Thê, Tử. Càng gặp nhiều, tình trạng cô đơn càng chắc chắn, nhất là đối với nữ số.
 

mimi1986

Điều hành cấp cao
P/ Cách sợ vợ, nể vợ - Những sao sợ vợ, nể vợ

1. Những bộ sao nói lên bản lĩnh của người vợ:

Thất Sát hay Hóa Quyền ở cung Thê: Sát là sao nóng tính, uy dũng, oai phong, cương nghị, hiếu thắng, tự ái đối với cả hai phái. Dù đắc địa hay hãm địa, bản chất cương cường không biến thể bao nhiêu nên nữ mệnh có sao này tọa thủ càng có khuynh hướng đóng vai chủ động trong việc liệu công việc trong gia đình và giao tế ngoài xã hội. Hóa Quyền chỉ sự hiếu thắng, háo quyền, thích chỉ huy, hay dựa vào quyền thế kẻ khác, đặc biệt là của chống. Từ đó, hậu quả khả hữu là hay hiếp chồng, lấn lướt người chồng, lợi dụng quyền lực của chồng. Cả hai sao đi chung là hai yếu tố căn bản của một phụ nữ hiên ngang đối với chồng. Sát hay Quyền càng đắc địa, tính tình càng cương ngạnh.

Tướng Quân hay Thiên Tướng ở cung Thê: Thiên Tướng là quyền tinh và dũng tinh nên đàn bà có sao này nóng nảy và bất nhẫn như Thất Sát, mặt khác lại có tính ghen tuông mãnh liệt. Nếu đắc địa, Thiên Tướng còn có ý nghĩa tư chế ít nhiều, thường có xu hướng cao thượng hơn, cụ thể là dùng nghị lực của mình để thuyết phục chồng, áp lực chồng làm việc hay. Nếu hãm địa, tính tình trở nên bộc trực, nóng nảy, liều lĩnh, miễn đạt ý muốn, bất chấp hay dở. Tướng Quân, tuy là phụ tinh, nhưng đồng nghĩa với Thiên Tướng, duy có nóng tính, táo bạo, liều lĩnh nhiều hơn. Ngoài ra, còn có tính kiêu căng, có óc lãnh tụ, có tinh thần sứ quân, háo quyền, nặng tính chất vũ phu và độc lập hơn Thiên Tướng rất nhiều, nết ghen cũng không thiếu. Cả hai sao nếu đồng cung được gọi là "lưỡng tướng". Cung Thê của đàn ông gặp bộ sao này thì rất sợ vợ còn cung Mệnh của phụ nữ có hai sao này thì hay lấn hiếp chồng. Nếu được cát tinh phù trợ thì áp lực của vọ có chiều hướng tốt, có lợi cho chồng, kiểu như vượng phu. Kỳ dư thì thường bất lợi và hay trái đạo phu thê.

Thân cư Thê: có thể là
(i) phải nhờ vả nhiều nơi người vợ vì chính hoạt động của vợ có ảnh hưởng sâu rộng và trực tiếp đến hậu vận của chồng;
(ii) sợ vợ, nể vợ hoặc do bản tính cố hữu hoặc do nguyên nhân kể trên.

Hóa Quyền ở cung Nô: đây là cách sợ vợ bé hay sợ nhân tình của người chồng đã đa mang. Người đa thê mà gặp sao này ở Nô thường lục đục với gia đình chính thức. Nếu có Thiên Tướng hay Tướng Quân ở Nô nữa thì mức độ chi phối của nhân tình và vợ lẽ rất quyết định. Nếu có thêm các sao thủ đoạn, chua ngoa nữa (như Phục Binh, Thái Tuế, Hóa Kỵ) thì vợ lẽ, nhân tình đó tác oai, tác quái vô cùng. Nếu Hóa Quyền chỉ hội chiếu vào Nô thì ảnh hưởng đó gián tiếp, giai đoạn và cơ hội mà thôi.


2. Những bộ sao nói lên tư thế trội yếu của người vợ:

Thông thường có những tài tinh ở Thê trội yếu như: Hóa Lộc hay Lộc Tồn ở Thê - Vũ Khúc, Thiên Phủ ở Thê - Hóa Lộc hay Lộc Tồn, Ân Quang, Thiên Quý ở Thê - Tử Vi, Thiên Tướng ở Thê - Long, Phượng, Lộc, Mã ở Thê và nhiều bộ sao giàu có chỉ di sản, tư sản, tạo sản của người vợ.
Nếu các bộ sao giàu ngụ ở Thê thì tất sẽ vắng bóng ở cung Mệnh, Thân, Tài, Quan của nam số. Nếu những cung này xấu thì chồng nghèo hơn vợ và phải "thực lộc chi thê".
Nếu Thái Âm sáng sủa ở Thê thì tư thế của vợ mạnh và nếu sao tọa thủ Mệnh của người chồng lại lép vế thì nam số thường nương thế vợ để tiến thân.

Thân cư Thê có Thái Âm sáng sủa: sợ và nể vợ khá rõ ràng. Thái Âm càng sáng, sự nghiệp vợ càng hiển. Nếu đồng cung với Thiên Cơ ở Thân (Thiên Cơ chỉ sự khó tính, ghen tuông) thì ý nghĩa trên càng được xác nhận. Trong mọi vị trí mà Thái Âm sáng sủa (Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý) đóng ở Thê thì trai lấy vợ vừa đẹp, vừa giàu, thường nể vợ và phải nhờ vợ mới có danh. Nếu có thêm cả Lộc, Quyền thì tính sợ vợ càng chắc chắn.
 

mimi1986

Điều hành cấp cao
Q/ Cách Đa Phu, Đa Thê

1.
Cách đa phu thê tại cung Phu Thê:
Cự Môn, Hóa Kỵ: cho dù đắc địa cũng nói lên bất trắc gia đạo đặc biệt là khi đồng cung. Bộ sao này gọi là "ngọc có vết", ám chỉ duyên số phụ nữ phải gặp bất hạnh, từ tai nạn trinh tiết xảy ra cho người con gái chưa chồng cho đến hậu quả trên hạnh phúc gia đạo sau khi lập gia đình. Cự, Kỵ có nghĩa là có hai đời chồng, đồng thời cũng có nghĩa là gia đạo bất hòa, người đàn bà bị hắt hủi, phụ rẫy vì thất trinh trước khi lấy chồng. Nếu chỉ có Kỵ đơn thủ thì chỉ có nghĩa là bất hòa mà thôi.
Cự Môn hãm địa: nếu cung Phúc, Mệnh hay Thân xấu, Cự Môn hãm địa sẽ bất lợi cho gia đạo, thể hiện qua việc chắp nối vài lần. Trái lại, nếu ba cung trên tốt, thì có thể chỉ xung khắc mà thôi.
Cự Môn, Hỏa Tinh, Linh Tinh: khắc phá, dễ đi đến tan vỡ, chắp nối.
Phá Quân, Tuần hay Triệt: Phá Quân chủ sự hao tán phu thê dù là đắc địa. Tuần, Triệt báo hiệu sự xung khắc nặng. Cả hai sao thường báo hiệu sự gãy đổ, có khi đến ba lần. Chỉ riêng Tuần hay Triệt cũng đủ hủy hoại một lần hôn nhân.
Tuần, Triệt hoặc Tuần, Triệt đồng cung: chỉ sự gãy đổ một lần, nhẹ nhất có thể là bị hồi hôn sau khi có lễ hỏi, nặng nhất là tan rã sau khi hai người ăn ở với nhau. Nếu Tuần, Triệt đồng cung thì cái họa chia ly, sát phu, chắp nối hầu như khó tránh và có thể xảy ra ít nhất hai lần trong gia đạo. Nếu cung Phúc, Mệnh, Thân mà xấu nữa thì nữ số, ngoài việc chết chồng, mất chồng có thể lâm vào cảnh lẽ mọn, thứ thiếp, chưa kể đây có thể là trường hợp gái giang hồ hoặc là gái già không chồng, lỡ thời hoặc phải ở vậy nuôi con, dù có "lắm mối" mà tối vẫn "nằm không". Trường hợp chồng bỏ cũng là một hình thái khả dĩ có. Hai sao này phá hoại cung Phu không kém gì Phá Quân hãm địa. Mức độ nặng nhẹ, số lần tan hợp còn tùy phẩm chất của Phúc, Mệnh, Thân.
Thất Sát ở Thìn, Tuất: khắc chồng và gián đoạn gia đạo nhiều lần, đặc biệt là khi Phúc, Mệnh, Thân xấu.
Tử Vi, Tham Lang hội Tả, Hữu: Riêng Tả, Hữu ở Phu ám chỉ sự song đôi, nghĩa là có hai đời chồng hoặc nếu Mệnh, Thân có nhiều sao tình dục thì có chồng và có cả nhân tình.
Đào Hoa, Thiên Hình: duyên số bị trắc trở nhiều lần. Vì Thiên Hình chỉ sự ghen tuông và bạo hành cho nên cách Hình Đào ám chỉ một vụ ngoại tình nào đó của người chồng (hay vợ) làm đổ vỡ gia đạo, sau một trận xô xát và mặt khác cũng chỉ cá tính quá ghen tuông của người vợ/chồng làm cho duyên phận hai bên bị gián đoạn. Vốn có Đào Hoa hiện diện ở Phu cho nên việc ngoại tình của chồng thường tái diễn và việc ông ăn chả bà ăn nem cũng khả hữu.
Thiên Riêu, Thiên Hình: ý nghĩa tương tự như trên nhưng có phần nặng hơn vì Thiên Riêu chỉ sự giao dịch sinh lý hẳn hoi, trong khi Đào Hoa có thể chỉ bay bướm lăng nhăng. Tuy Hình, Riêu ở Phu có nghĩa là chồng ngoại tình song đây cũng là cách gái hại chồng, phản chồng để thỏa mãn sinh lý hoặc để trả thù. Nghĩa này càng rõ khi Riêu thủ ở Mệnh, Thân, Di hay Quan của lá số phụ nữ: đàn bà dâm đãng, ngoại tình và bị chồng hay nhân tình đánh đập (Thiên Hình chỉ thương tích) hoặc kiện ly dị.
Đào Hoa hay Hồng Loan gặp Hóa Kỵ: không nhất thiết phải có hai chồng. Chắc chắn nhất là bộ sao này chỉ sự đắc mèo của chồng, đắc kép của vợ. Hội với Hóa Kỵ ở cung Phu là có sự lục đục, nghi ngờ lẫn nhau trong gia đạo. Nếu thiếu sao đoan chính thì vấn đề đắc kép của nữ số chỉ ngoại tình, đa "phu". Nếu nhân duyên bị gián đoạn, người đàn bà tái giá rất nhanh, nhờ luôn có kép hờ.
Long Trì, Phượng Các, Tả Hữu: Long Phượng chỉ hôn nhân, còn Tả Hữu ngụ ý có sự song đôi hay tái sinh, tái hợp nhiều lần. Vì bản chất tốt đẹp của Long Phượng nên trong cả hai lần, phụ nữ đều gặp nhân duyên ưng ý.
Nhật, Nguyệt, Tả Hữu: Nhật Nguyệt tượng trưng cho chồng và vợ đi đôi với Tả Hữu có thể có tình trạng hai lần lập gia đình hoặc tình trạng có gia đình mà có nhân tình. Nếu Nhật Nguyệt cùng sáng, hai mối duyên có thể cùng tốt đẹp. Nếu mờ ám, thường là ngang trái, chia ly.
Thiên Mã, Tuần hay Triệt: chỉ sự đổ vỡ một lần.
Cự Môn, Thiên Đồng, Thiên Riêu: Cự ở Phu chỉ trắc trở gia đạo, Đồng chỉ sự thay đổi, Riêu chỉ sắc dục. Đây là trường hợp ngoại tình của người chồng hoặc người vợ vì Cự ở Phu thường chỉ hai đời chồng hoặc hai chồng. Vì Riêu chỉ mối tình xác thịt cho nên cả hai vợ chồng cùng chạy theo tiếng gọi của sinh lý.
Thai, Phục, Vượng, Tướng: hai vợi chồng lấy nhau rồi mới hợp thức hóa (tiền dâm hậu thú), đồng thời cũng có nghĩa là vợ hoặc chồng có một đời con trước rồi mới họp nhau.

2. Cách đa phu thê tại cung Mệnh hay Thân:
Đào Hoa hay Hồng Loan với Thiên Riêu: đa tình, đa dâm, dù đã có chồng.
Đào, Thai hay Liêm Trinh, Tham Lang đồng cung: chỉ sự dâm đãng khá nặng, hiến dâng một cách dễ dãi và vô điều kiện. Riêng bộ Liêm Tham còn báo hiệu cả số kiếp giang hồ khả hữu. Sự hiện diện của sao Thai còn có nghĩa "không chồng mà chửa".
Thiên Riêu, Thiên Đồng: chỉ sự thay cũ đổi mới trong vấn đề sinh lý và là biểu hiện của sự ngoại tình, bắt nguồn từ lý do thể xác. Nếu Đồng ở Hợi hay Tỵ mà gặp Riêu tại đó thì có thể là giang hồ, hư thân mất nết từ nhỏ.
Hoa Cái, Bạch Hổ, Mộc Dục: Mộc Dục và Hoa Cái chỉ sự chưng diện, se sua và háo dâm. Bạch Hổ là máu. Tính nết dâm đãng vào tận xương tủy, hầu như là một bệnh sinh lý. Đây là người chưng diện sắc sảo và khéo chiều chuộng đàn ông, làm cho mọi người phải chết mê, chết mệt vì họ.
Tướng, Khúc, Mộc, Cái, Đào: chỉ sự hoa nguyệt của hạng người quý phái, ngoại tình với các nhà tai mặt, quyền thế, sang trọng.
Tham Lang hay Thất Sát ở Dần, Thân: chỉ người con gái bạc tình, đôi khi ghen tuông từ tự ái hay quyền lợi hơn là vì tình yêu
Đào Hoa hay Hồng Loan: có nhan sắc, có duyên. Nếu hội thêm Tả Hữu, có thể có hai đời chồng.
Sát tinh và sao tình dục: báo hiệu nhiều nghiệp chướng trong tình trường, cụ thể như gặp nhiều mối tình hết sức ngang trái hoặc phải tan vỡ nhiều lần, thậm chí có thể là giang hồ lãng tử. Người đàn bà như vậy gặp nhiều mối tình liên tiếp, chóng hợp, chóng tan, mỗi lần như thế đều phải điêu đứng, đau khổ, có khi đến tự tử (sát tinh).
Chính tinh hãm địa ở Mệnh: cũng là một bất hạnh có thể có cho gia đạo. Sát Phá Liêm Tham không bao giờ hợp với phụ nữ về phương diện gia đạo. Nếu đắc địa thì có thể quyền quý cao sang nhưng cảnh chồng con không toàn, không bền, dễ bị gián đoạn, chắp nối.

3. Cách đa phu thê ở cung Nô:
Đào Hoa hay Hồng Loan: chỉ nhân tình khả hữu, dù là có chồng.
Thiên Riêu, Đào Hoa hay Thiên Đồng: háo dâm, hay thay đổi tình nhân và ngoại tình. Duy chỉ có Riêu ở Mão, Dậu thì tương đối kín đáo, có tự chế, vì thế ít lụy đến danh giá, tai tiếng. Nếu có Tử đồng cung thì cuộc ngoại tình rất bí mật, cẩn thận, nhờ tài khéo léo che mắt thiên hạ. Đào với Tử còn có nghĩa là yêu trộm, thương thầm, có khi chỉ một chiều.
Thai Đào hay Thai Riêu: chỉ việc thụ thai khả hữu do lang chạ.
Thai, Phục, Vượng, Tướng: dâm bôn với người tình có thể có thai. Thông thường, có sự dụ dỗ của một bên nào đó vì có Phục Binh và Tướng Quân chỉ thủ đoạn, làm liều, táo bạo. Và cũng vì có Phục Binh nên có thể câu chuyện bị tiết lộ và cặp nhân tình bị bắt ghen tại trận. Nếu được Thiên Giải đồng cung, có thể chạy thoát.
 
Top