iHi
Moderator
nguồn : tuvilyso
tác giả : dinhvantan
1. Thông quan thủ dụng pháp
Thông quan là ngoài Nhật chủ ra, lưỡng đầu đối trĩ (đối đầu với nhau), thế quan lực địch , khinh trọng thân sơ ngang nhau chẳng lẽ có chổ lấy có chổ bỏ, duy có cách quan thông cái khí của nó mới có thể là cái Dụng của ta được. Nghi kỵ cần thiết, tạm thời hoãn bàn không phải là không luận mà phải để ý đến cái khẩn cấp trước đã.
Thương Quan , lưỡng đình dụng Tài .
Mâu Dần - Canh Thân - Kỹ Sửu - Giáp Tý
Thu thổ khí hàn nên dụng Bính hỏa không như Dần Thân lưỡng xung , Ấn bị Tài phá chẳng thể là Dụng . Canh kim là khí đương vượng của nguyệt lệnh thấu xuất thiên can Giáp mộc tọa Tý , lâm quan tại Dần và cùng Nhật chủ tương hợp . Quan Thương thế sức ngang ngữa chẳng thể lấy chẳng thể bỏ . Duy có thể dụng Nhâm thủy trong Thân , tiết kim khí để sinh Mộc , vận hành Thủy Mộc tối mỹ . Đây là lấy thu thổ làm Thể . Tài quan làm Dụng . Một ví dụ khác .
Tài Ấn lưỡng đình dụng Quan.
Kỹ Hợi - Bính Tý - Kỹ Tỵ - Canh Ngọ
Kỷ thổ sinh ở trọng đông , thổ đóng băng cho nên đương nhiên dụng Bính . Tỵ Ngọ thành phương , Bính hỏa xuất can dương hòa đã tràn lan mặt đất . Nguyệt lịnh Tài tinh bĩnh lịnh . Hợi Tý thành phương , Tài vượng tổn Ấn . Duy chỉ có Hợi cung Giáp mộc, Quan tinh thông với khí Tài Ấn .
Lấy đông thổ làm Thể . Quan ẩn là Dụng .
2. Bịnh Dược thủ dụng pháp
Bịnh Dược thủ dụng pháp (dược ở đây là thuốc) là một trong năm Dụng thần thủ pháp. Ngũ ngôn Độc Bộ có nói :
"Có bịnh mới là Quý , không tỗn chẳng là kỳ,
Trong cách mà khữ bịnh , tài lộc lưỡng tương trì".
Thần Phong diễn ra thành thuyết Bịnh Dược , sự thực ra là cái ý doanh hư tiêu trưởng phối hợp hỷ kỵ . Muốn thế tứ trụ cần phải trung hòa , Quý tiện há chỉ ở chổ bịnh dược. Cái ý của Độc bộ là nói : "Có bịnh chưa đủ là hại, được thuốc cứu không trở ngại cho cái quý của nó, há có phải thực sự lấy bịnh cho là Quý đâu".
Thái cường, thái nhược đều là bịnh, phù nó ức nó là dược. Tác dụng của phù ức đã luận rõ ở trên rồi. Đây chỉ nói cái Dụng của Bịnh và Dược.
Là nguyên cục có dụng thần thích hợp nhu yếu mà bị Can khác ức chế khiến cho nó thành bịnh. Chẳng thể dụng cái thần nhu yếu mà cần khử đi cái thần gây bịnh làm dụng thì nó làm được.
Như hạ Mộc hỷ Ấn, nguyên cục kiến Nhâm Quý cực hợp nhu yếu của hạ Mộc không như biệt can thấu Mậu. Cái Mậu thổ nầy là bịnh thần cho nên chẳng thể lấy Nhâm thủy làm dụng mà cần phải lấy Giáp Mộc có khả năng khử Mậu thổ làm dụng. Giáp mộc bèn là dược vậy. Có Giáp chế Mậu, Nhâm Quý mới hiển được cái công nhuận trạch.
Cách dược khữ bịnh nầy, nguyên cục có nó chung thân hoạch phúc. Đại vận có nó thì trọn vận đó thâu hoạch được lợi ích.
Như ví dụ :
Nhâm Tuất - Kỹ Dậu - Đinh Sửu - Giáp Thìn .
Đinh hỏa chiêu dụng tuy sinh Dậu nguyệt chẳng lấy suy kiệt làm kỵ. Nguyên cục có Ấn tương sinh, nguyệt lịnh Tài vượng sinh Quan là mệnh phú Quý song toàn. Không như Kỷ thổ xuất xuất can hổn trọc Nhâm thủy. Chỉ có thể thủ Giáp mộc chế Kỷ làm dụng mà chẳng thể lấy Tài quan làm dụng. Tốt ở chổ cách vị bất hợp đủ để tương chế Sửu Dậu hội cục, phú trọng quý khinh.
Ví dụ 2:
Mậu Tý - Nhâm Tuất - Giáp Dần - Canh Ngọ
Thu mộc khô điêu , Dần Ngọ Tuất hội hỏa cục Mộc thành tro bay. Mộc khô hư, cần được Nhâm thủy phá hỏa cục khả dĩ mới phú Quý được. Không như Mậu thổ xuất can chế thủy là bịnh tất cần Giáp mộc tỷ kiên khữ Mậu làm cứu. Nguyên cục vô Tỷ gọi là hữu bịnh vô dược. Hành Tỷ Kiếp vận khá tốt. Quá về sau gặp nhiều trở trệ là vì nguyên cục bịnh trọng vô dược cho nên Dụng thần thụ chế.
tác giả : dinhvantan
1. Thông quan thủ dụng pháp
Thông quan là ngoài Nhật chủ ra, lưỡng đầu đối trĩ (đối đầu với nhau), thế quan lực địch , khinh trọng thân sơ ngang nhau chẳng lẽ có chổ lấy có chổ bỏ, duy có cách quan thông cái khí của nó mới có thể là cái Dụng của ta được. Nghi kỵ cần thiết, tạm thời hoãn bàn không phải là không luận mà phải để ý đến cái khẩn cấp trước đã.
Thương Quan , lưỡng đình dụng Tài .
Mâu Dần - Canh Thân - Kỹ Sửu - Giáp Tý
Thu thổ khí hàn nên dụng Bính hỏa không như Dần Thân lưỡng xung , Ấn bị Tài phá chẳng thể là Dụng . Canh kim là khí đương vượng của nguyệt lệnh thấu xuất thiên can Giáp mộc tọa Tý , lâm quan tại Dần và cùng Nhật chủ tương hợp . Quan Thương thế sức ngang ngữa chẳng thể lấy chẳng thể bỏ . Duy có thể dụng Nhâm thủy trong Thân , tiết kim khí để sinh Mộc , vận hành Thủy Mộc tối mỹ . Đây là lấy thu thổ làm Thể . Tài quan làm Dụng . Một ví dụ khác .
Tài Ấn lưỡng đình dụng Quan.
Kỹ Hợi - Bính Tý - Kỹ Tỵ - Canh Ngọ
Kỷ thổ sinh ở trọng đông , thổ đóng băng cho nên đương nhiên dụng Bính . Tỵ Ngọ thành phương , Bính hỏa xuất can dương hòa đã tràn lan mặt đất . Nguyệt lịnh Tài tinh bĩnh lịnh . Hợi Tý thành phương , Tài vượng tổn Ấn . Duy chỉ có Hợi cung Giáp mộc, Quan tinh thông với khí Tài Ấn .
Lấy đông thổ làm Thể . Quan ẩn là Dụng .
2. Bịnh Dược thủ dụng pháp
Bịnh Dược thủ dụng pháp (dược ở đây là thuốc) là một trong năm Dụng thần thủ pháp. Ngũ ngôn Độc Bộ có nói :
"Có bịnh mới là Quý , không tỗn chẳng là kỳ,
Trong cách mà khữ bịnh , tài lộc lưỡng tương trì".
Thần Phong diễn ra thành thuyết Bịnh Dược , sự thực ra là cái ý doanh hư tiêu trưởng phối hợp hỷ kỵ . Muốn thế tứ trụ cần phải trung hòa , Quý tiện há chỉ ở chổ bịnh dược. Cái ý của Độc bộ là nói : "Có bịnh chưa đủ là hại, được thuốc cứu không trở ngại cho cái quý của nó, há có phải thực sự lấy bịnh cho là Quý đâu".
Thái cường, thái nhược đều là bịnh, phù nó ức nó là dược. Tác dụng của phù ức đã luận rõ ở trên rồi. Đây chỉ nói cái Dụng của Bịnh và Dược.
Là nguyên cục có dụng thần thích hợp nhu yếu mà bị Can khác ức chế khiến cho nó thành bịnh. Chẳng thể dụng cái thần nhu yếu mà cần khử đi cái thần gây bịnh làm dụng thì nó làm được.
Như hạ Mộc hỷ Ấn, nguyên cục kiến Nhâm Quý cực hợp nhu yếu của hạ Mộc không như biệt can thấu Mậu. Cái Mậu thổ nầy là bịnh thần cho nên chẳng thể lấy Nhâm thủy làm dụng mà cần phải lấy Giáp Mộc có khả năng khử Mậu thổ làm dụng. Giáp mộc bèn là dược vậy. Có Giáp chế Mậu, Nhâm Quý mới hiển được cái công nhuận trạch.
Cách dược khữ bịnh nầy, nguyên cục có nó chung thân hoạch phúc. Đại vận có nó thì trọn vận đó thâu hoạch được lợi ích.
Như ví dụ :
Nhâm Tuất - Kỹ Dậu - Đinh Sửu - Giáp Thìn .
Đinh hỏa chiêu dụng tuy sinh Dậu nguyệt chẳng lấy suy kiệt làm kỵ. Nguyên cục có Ấn tương sinh, nguyệt lịnh Tài vượng sinh Quan là mệnh phú Quý song toàn. Không như Kỷ thổ xuất xuất can hổn trọc Nhâm thủy. Chỉ có thể thủ Giáp mộc chế Kỷ làm dụng mà chẳng thể lấy Tài quan làm dụng. Tốt ở chổ cách vị bất hợp đủ để tương chế Sửu Dậu hội cục, phú trọng quý khinh.
Ví dụ 2:
Mậu Tý - Nhâm Tuất - Giáp Dần - Canh Ngọ
Thu mộc khô điêu , Dần Ngọ Tuất hội hỏa cục Mộc thành tro bay. Mộc khô hư, cần được Nhâm thủy phá hỏa cục khả dĩ mới phú Quý được. Không như Mậu thổ xuất can chế thủy là bịnh tất cần Giáp mộc tỷ kiên khữ Mậu làm cứu. Nguyên cục vô Tỷ gọi là hữu bịnh vô dược. Hành Tỷ Kiếp vận khá tốt. Quá về sau gặp nhiều trở trệ là vì nguyên cục bịnh trọng vô dược cho nên Dụng thần thụ chế.