Nếu có thời gian thì bạn đọc mấy bài viết sau, tôi nghĩ sẽ giúp ích nhiều cho bạn:
1. Ý nghĩ 12 cung trên lá số Tử vi:
Cung Mệnh : Là bản mệnh của người đó, xem cung này để biết sang hèn thọ yểu 1 đời người ta từ lúc sinh ra đến lúc về với cát bụi. Đây là cung đại biểu nhất, mạnh nhất, chi phối toàn bộ cuộc đời. Và bản thân nó cũng bị chi phối mạnh nhất trong tất cả các cung. Điều này rất quan hệ, nên để ý kỹ, nhắc lại: MỆNH BỊ CHI PHỐI BỞI TẤT CẢ CÁC CUNG TRÊN LÁ SỐ.
Cung Huynh Đệ : Thể hiện TÌNH TRẠNG MỐI QUAN HỆ giữa đương số và ANH-CHỊ-EM trong gia đình, kể cả không cùng huyết thống (cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha, Anh chị em nuôi, kết nghĩa v.v..). Và đôi khi TRÊN MỘT PHƯƠNG DIỆN NÀO ĐÓ, nó thể hiện MỘT ĐÔI CHÚT về hình dáng, tính tình, cuộc sống của chung cho những người Huynh Đệ ấy. Có nghĩa rằng NÓ KHÔNG PHẢI LÀ SỐ MỆNH CỦA HUYNH ĐỆ NẰM Ở ĐẤY, MÀ CHỈ LÀ QUAN HỆ với đương số thôi. Tiện đây giải thích luôn, trên lá số Tử vi có đủ quan hệ Lục Thân (quan hệ gia đình, ruột thịt) đó là : Phụ Mẫu, tử tức, huynh đệ, phu thê. Tất cả các cung này chỉ là thể hiện Mối Quan hệ với đương số, chứ không phải là số mệnh của người ta nằm ở đó. Đối với các tử vi gia tinh tường, thì nó có thể thể hiện được 1 chút bóng dáng của cuộc đời, hình dáng hay tính tình của đối tượng đó trên cung số. Tuy nhiên không có nghĩa là nó có thể xem được cho các đối tượng kia một cách chi tiết. Rõ hơn, lấy ví dụ, Ta chỉ có thể xem được mối quan hệ Tốt Xấu, hòa hợp hay không hòa hợp giữa đương số đối với Huynh Đệ khi xem cung Huynh đệ. Nhưng không thể xem SỐ MỆNH cho người ta trên lá số của mình được. Nên chú ý điều này, để tránh suy diễn về sau!
Cung Phu Thê : Thể hiện tình trạng quan hệ Chồng/Vợ đối với đương số, kể cả những quan hệ chính thức hay không chính thức. Đây là cung nói đến quan hệ với người PHỐI NGẪU, nhưng cũng là nơi thể hiện mối quan hệ Nam Nữ, thể hiện tình cảm Nam Nữ, thể hiện 1 phần tình trạng dục vọng ham muốn, tình trạng hôn nhân, “sinh hoạt phòng the” và 1 phần bóng dáng về tính tình, hình dáng, cũng như cuộc đời của người phối ngẫu.
Cung Tử Tức : Thể hiện tình trạng quan hệ giữa đương số và CON, kể cả chính thức hay không chính thức, cùng huyết thống hay không cùng huyết thống (con nuôi, con dị bào, con “lạc dòng”.v.v.), ngoài ra còn thể hiện về tình trạng sinh nở, nuôi dạy con cái, số con, và một đôi chút tương lai, hình dáng, cuộc đời của con cái trong đó.
Cung Tài Bạch : Thể hiện tình trạng về tài sản của đương số, cũng như cách thức tạo dựng tài sản của đương số, và diễn biến về tình trạng tài sản của đương số. Cung Tài Bạch luôn song hành cũng cung Điền Trạch trong giải đoán, nên chú ý điều này. Cung Tài Bạch là 1 trong 3 cung tam hợp chiếu của Mệnh, nên rất quan hệ trong quá trình luận đoán, cần được xem xét kỹ.
Cung Tật Ách : Thể hiện sự An Nguy một đời người, sức khỏe, tai nạn, hung hiểm tật ách, mất mát đau thương…v.v nói chung, là tất cả những Vận Hạn Xấu Tốt. Cung này có quan hệ rất mật thiết đối với việc luận đoán vận hạn. Khi luận đoán vận hạn cần phải kết hợp chặt chẽ với cung Tật Ách để phán quyết.
Cung Thiên Di : Thể hiện sự đi lại, xuất ngoại của đương số. Nhưng Đặc Biệt, vì nó chính chiếu cung Mệnh, cho nên nó cũng là một cung có ảnh hưởng trực tiếp đến cung Mệnh, nó thể hiện cái Môi Trường hoạt động của đương số.
Cung Nô Bộc : Thể hiện tình trạng quan hệ của tất cả các mối quan hệ giao tiếp với đương số trừ Lục Thân! Nói chung, nó thể hiện tình trạng xấu tốt của các mối quan hệ XÃ HỘI đối với đương số.
Cung Quan Lộc : Thể hiện tình trạng công danh, công việc, sự nghiệp, diễn biến thăng trầm trên đường hành sự của một đời người. Nó là cung nằm trong Tam Hợp chiếu với cung Mệnh nên đóng vai trò rất quan trọng trong giải đoán.
Cung Điền Trạch : Thể hiện tình trạng nhà cửa, đất đai ruộng vườn của đương số, nó có quan hệ mật thiết với cung Tài Bạch và thường không thể tách rời trong luận đoán. Ngoài ra nó còn thể hiện quá trình tạo dựng cơ nghiệp, điền sản, bất động sản trong suốt cuộc đời của đương số. Luận đoán Cung Điền trạch không thể tách rời việc luận đoán vận hạn.
Cung Phúc Đức: Thể hiện tình trạng về mối quan hệ của đương số với DÒNG TỘC, TỔ TIÊN, đặc biệt, thể hiện Tình trạng ÂM PHẦN (mồ mả) của cha ông tổ tiên. Cung này cũng là một cung rất đặc biệt, nó có tác dụng mạnh và rộng khắp, chi phối tất cả các cung trên lá số. Bất luận là luận đoán về điều gì, tất thảy đều phải xem xét cung Phúc Đức.
Cung Phụ Mẫu : Thể hiện tình trạng mối quan hệ của Cha Mẹ đối với đương số, dù chính thức hay không chính thức. Ngoài ra, nó còn thể hiện đôi chút về cái sự Thọ yểu, sang hèn, hình dáng, tính tình của Cha Mẹ đối với đương số.
Cung Thân : đây là 1 cung đặc biệt, nó không đóng cố định, tùy theo giờ sinh mà di chuyển trên 6 cung: Phu Thê – Tài Bạch – Thiên Di – Quan Lộc – Phúc Đức – Mệnh. Cung Thân có tầm quan trọng không kém cung Mệnh. Nếu coi Mệnh là THỂ, thì cung THÂN là DỤNG. Khi con người ta sinh ra, khí Tiên Thiên còn mạnh, thì cái sự chi phối của cung Thân chưa đáng kể. Đến khi ta lớn lên, Khí Tiên Thiên dần yếu đi, khí Hậu Thiên lớn mạnh lên thì cái sự chi phối của cung Thân ngày càng mạnh mẽ. Tuy nhiên, cái lý vẫn không tách rời cung Mệnh, là cái gốc của đời người, do vậy không ủng hộ quan điểm cho rằng “sau 30 tuổi xem ở cung Thân, trước 30 tuổi xem ở cung Mệnh”. Thực chất, dù sau 30, hay trước 30 cũng đều phải xem xét kỹ lưỡng cả hai cung, chỉ khác là ở cái sự cân nhắc, gia giảm của người luận đoán mà thôi.
- TUETVNB -
2. TỨ YẾU – THẬP DỤ – BÁT PHÁP
Các sao phân phối đóng tại 12 cung, biến hoá vô cùng. Có bốn điểm trọng yếu để phân biệt:
a). Cát hung – b). Hư thực – c). Chủ khách – d). Cường nhược.
Cát – Hung: Sao có sao thiện, sao ác, thiện là cát tinh, ác là hung tinh. Hung hay cát không phải chỉ căn cứ trên tính chất mỗi vị sao mà còn căn cứ trên chỗ đứng của nó đúng hay sai, miếu địa hay hãm địa.
Hư thực thế nào? Sao tốt làm miếu địa mới là thực cát, thực cát thì không hung dù gặp hung cũng chẳng sợ. Sao xấu rơi vào hãm địa mới là thực hung, thực hung thì không cát, dù gặp cát cũng khó lòng giải. Sao tốt ở hãm địa là hư cát, hư cát là không tốt, còn có thể biến cát thành hung. Sao xấu ở miếu địa là hư hung, hư hung là không hung, còn có thể biến hung thành cát.
Chia chủ khách ra sao?
Lấy các sao ở bản phương làm chủ, các sao tại cung tam hợp hay xung chiếu là khách. Nếu như bản phương không có chính tinh tức không có chủ thì phải mượn sao ở cung xung chiếu làm chủ, các sao cung tam hợp làm khách. Trong trường hợp cả hai cung xung chiếu cung vô chính tinh thì chỉ lấy sao khách mà luận cát hung.
Cường nhược đây ý nói cường nhược trong tương quan chủ khách. Khách với chủ đều tốt là khách chủ tương đắc hay khách chủ đều xấu là một bầy bạo nguợc thì khỏi phải đặt vấn đề cường nhược. Chủ khách vừa hung vừa cát thì phải xét chủ mạnh hay khách mạnh. Nếu chủ mạnh thì khách theo chủ, nếu chủ yếu thì khách kéo chủ đi. Cát cường cát thắng, hung cường hung thắng.
Thập dụ là gì?
Là mười điều căn bản cho việc xem số ở mỗi cung cùng với cát cung tam hợp và cung xung chiếu:
1). Bản phương tốt (cát) “do nội tự cường” mạnh từ bên trong mạnh ra.
2). Bản phương xấu (hung) là “tòng căn tự phát” hư từ gốc rễ.
3). Cung xung chiếu tốt là “nghênh xuân tiếp phúc” chờ xuân đón phúc.
4). Cung xung chiếu xấu là “đương đầu ác bổng” giơ đầu chịu búa đập.
5). Cung tam hợp tốt là “tả hữu phùng nguyên”, lắm chân tay giúp đỡ.
6). Cung tam hợp xấu là “tả hữu thụ địch”, địch từ bên phải, bên trái đánh tới.
7). Lân phương (cung đằng trước đằng sau) tốt là “lưỡng lân tương phù” hai bên hàng xóm phù trợ.
8). Lân phương xấu là “lưỡng lân tương vũ”, hai bên hàng xóm mưu hại.
9). Cả bốn cung cùng tốt là “ Thiên tường vân tập” mây ngũ sắc kéo về chầu.
10). Cả bốn cung cùng xấu là “tứ diện sở ca” bị vây tứ phía không lối thoát.
Bát pháp
Là tám lối định cách cục khi xem sổ. Mệnh ai cũng thế, đều có cách cục ví như hình vuông, hình tròn, to, nhỏ, đẹp, xấu, lành vỡ của đồ vật. Cách cục của mệnh nói cho hết thì nhiều vô cùng nhưng đây dùng lối quy nạp để đưa thành tám lối. Chia ra như sau:
A. Thành phá tứ pháp:
Phàm mệnh thân bản phương có sao tốt gặp các sao khác ở cung tam hợp và xung chiếu nếu gặp:
- Khoa Quyền Lộc Quí thì kể như cách cục thành, đáng phê mấy chữ “giao long đắc vận vũ” (con rồng gặp mây nước).
- Nếu gặp tứ hung Hỏa Linh, Dương Đà thì kể như phá cách loại “miêu nhi bất tú” (chỉ nẩy mầm mà mầm không xanh tốt).
- Nếu vừa gặp tứ hung lẫn tứ cát thì kể như trong thành có phá, chẳng khác chi “bạch khuê hữu điềm” (viên ngọc trắng bị vết nứt, vết mẻ).
- Cả tứ hung lẫn tứ cát đều không thì kể là cách chưa thành nhưng không bị phá, chờ xem hạn ra sao giống như “hỗn kim phác ngọc” (vàng còn lẫn các khoáng chất tạp nhạp, ngọc chưa được lấy ra khỏi đá).
B. Cửu khí tứ pháp:
Phàm mệnh thân cung mà các cung xung chiếu tam hợp đều có hung nếu:
- Gặp Lộc Quí Quyền Khoa là cứu cách, hạn hán lâu ngày được cơn mưa “cửu hạn phùng cam vũ”.
- Gặp Hỏa Linh Dương Đà là khí cách (bỏ đi), cây gỗ mục không thể khắc đẽo làm gì được “hủ mộc nan điêu”.
- Gặp vừa tứ cát vừa tứ hung là vừa cứu vừa khí cách, giống như ăn gân gà “thực kê lặc”.
- Không gặp cả tứ cát lẫn tứ hung là cách “thủ tàu bão khuyết” nấn ná đợi thời.