Vị trí mở cổng cửa, liệu baotran có chém gió
Tứ Hành Liên Châu hợp Huyền Không Ngũ Hành(hay dụng pháp Khai môn lập hướng của Huyền Không):
Nhiều người dùng Huyền Không lập hướng được tinh bàn vượng sơn vượng hướng nhưng rốt cục lại bại, đương nhiên có nhiều yếu tố dẫn đến cục vượng sơn vượng hướng bại nhưng trong đó Tứ hành liên châu hợp Huyền không ngũ hành phạm khắc sát là một yếu tố quan trọng.
Khi nghiên cứu về Huyền không hẳn nhiều người gặp dạng tinh bàn đặc biệt: Tam ban quái. Tam ban quái có 3 loại: Xảo quái, Liên châu và Thất tinh đã kiếp. Dụng Tam ban quái có thể sẽ phát cực nhanh hoặc suy cùng tận. Các sách nói về Tam ban quái chỉ nói ngắn gọn một câu: "cần xem xét loan đầu và bố trí ngũ hành giữa các cung sao cho thông khí và không khắc sát". Chẳng khác nào một câu đánh đố nhau. Loan đầu thì ở phạm vi bài này tôi không bàn đến nhưng "bố trí ngũ hành giữa các cung sao cho thông khí và không khắc sát" kỳ thực là việc dụng Tứ hành liên châu hợp Huyền không ngũ hành khai môn lập hướng không phạm khắc sát.
Huyền không ngũ hành
Bính Đinh Dậu Ất thuộc Hoả
Kiền Khôn Mão Ngọ thuộc Kim
Quý Hợi Giáp Cấn thuộc Mộc
Tuất Canh Sửu Mùi thuộc Thổ
Tý Dần Thìn Tốn Tân Tỵ Thân Nhâm thuộc Thuỷ
Kinh viết:
"hướng tòng thuỷ lập"
Dựa vào thuỷ để lập hướng, nơi thành thị không có thực thuỷ thì dùng hư thuỷ, chính là ngã ba, ngã tư gần nhất nhà hay con đường lớn gần nhà.
"vạn thuỷ đô tòng thiên thượng khứ
quần long giai hướng địa trung hành"
Thuỷ xem ở thiên can, long định ở địa chi.
Dụng Huyền không ngũ hành nhận thuỷ lập hướng, khai môn cầu sinh tránh sát:
Như thuỷ ở Bính, Đinh thì lập hướng, khai môn ở Tuất, Canh, Sửu, Mùi là tương sinh. Ở Dậu, Ất là đồng hành. Là tốt.
Nếu lập hướng, khai môn ở Tý Dần Thìn Tốn Tân Tỵ Thân Nhâm là sát, hung hiểm.
Tứ hành liên châu(Huyền không đại quái)
Xuất từ tứ kinh:
- Thiên bảo kinh: Cấn Bính Ất Tý Dần Thìn, 6 vị thuộc Kim, danh xưng Nhất long, 6 vị thuộc Dương
- Long tử kinh: Khôn Nhâm Tân Ngọ Thân Tuất, 6 vị thuộc Mộc, danh xưng Nhị Long, 6 vị thuộc Âm
- Huyền nữ kinh: Càn Canh Đinh Mão Tỵ Sửu, 6 vị thuộc Thuỷ Thổ, danh xưng Tam long, 6 vị thuộc Dương
- Bảo chiếu kinh: Tốn Giáp Quý Hợi Dậu Mùi, 6 vị thuộc Hoả, danh xưng Tam long, 6 vị thuộc Âm
Đây là Thiên Địa âm dương quái trong Ngũ hành, nên gọi Tứ kinh.
Bốn long vị Kim Mộc Thuỷ Hoả, tương sinh thì cát, tương khắc thì hung , hoạ phúc ở trong tương sinh tương cát.
Gọi tứ hành liên châu vì cách nhau 4 vị, như Cấn cách Ất 4 vị, Dần cách Thìn 4 vị...
Khẩu quyết dụng Tứ hành liên châu chỉ có bấy nhiêu, nhưng hoạ phúc do nó mang lại không phải nhỏ.
Tứ hành liên châu cũng như Huyền không ngũ hành, nhận thuỷ lập hướng khai môn, dùng sơn hướng để xét.
Định thuỷ lai hay ngã ba, ngã tư đường, lộ lớn gần nhà xem đến sơn nào trong bát can tứ duy: Càn Khôn Cấn Tốn Giáp Ất Bính Đinh Canh Tân Nhâm Quý
- Dựa vào tứ hành liên châu để xét: dùng đồng hành và tương sinh
+ Nhất long thuộc Kim phải hợp cùng Tam long Thuỷ Thổ là cát
+ Nhị long thuộc Mộc phải hợp với Tứ long thuộc Hoả là cát
Cách đồng hành:
hướng(hay môn): Tý Dần Thìn gặp thuỷ Cấn Bính Ất
hướng(hay môn): Ngọ Thân Tuất gặp thuỷ Khôn Nhâm Tân
hướng(hay môn): Mão Tỵ Sửu gặp thuỷ Càn Canh Đinh
hướng(hay môn): Hợi Dậu Mùi gặp thuỷ Tốn Giáp Quý
Cách tương sinh:
hướng(hay môn): Tý Dần Thìn gặp thuỷ Càn Canh Đinh
hướng(hay môn): Mão Tỵ Sửu gặp thuỷ Cấn Bính Ất
đây là Nhất log gặp Tam long, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thuỷ
hướng(hay môn): Ngọ Thân Tuất gặp thuỷ Tốn Giáp Quý
hướng(hay môn): Hợi Dậu Mùi gặp thuỷ Khôn Nhâm Tân
đây là Nhị long gặp Tứ long, Mộc sinh Hoả
Ví dụ: khi xây nhà ở phương Ất gần đó có ngã ba lớn, đây là cục Nhất long hành Kim, các hướng có thể lập và khai môn là: Tý Dần Thìn Mão Tỵ Sửu. Đây là Nhất long hợp Tam long: đồng hành và tương sinh, dương hướng, dương môn, dương thuỷ mới thuần tuý không tạp loạn Âm Dương. Nếu hợp với Nhị long và Tứ long là Âm Dương sai thác. Đây mới thực là nghĩa lý Nhất khí đồng nguyên(chỉ mới nhất khí thôi, còn chữ đồng nguyên phần kết hợp với tinh bàn Huyền không mới rõ). Do vậy nói Nhâm Tý sai thác âm dương là đúng nhưng nói Sửu Cấn sai thác âm dương là sai.
Tứ hành liên châu hợp Huyền không ngũ hành:
Tức là xét khai môn lập hướng cho cục hợp với Tứ hành liên châu và cả Huyền không ngũ hành:
ví dụ:
ở phương Cấn của cuộc đất có Thuỷ hoặc ngã ba, ngã tư đường. Tính tứ hành liên châu thì cuộc đất này thuộc Nhất long hành Kim, hợp với Tam long Thuỷ Thổ nên hướng và khai môn ở các sơn: Tý Dần Thìn Mão Tỵ Sửu.
Theo Huyền không ngũ hành thì lại thuộc Mộc, dụng tương sinh là lấy Thuỷ sinh cho Mộc nên các sơn lập hướng khai môn là: Quý Hợi Giáp Cấn Tý Dần Thìn Tốn Tân Tỵ Thân Nhâm.
Vậy chúng ta có các sơn vừa hợp Tứ hành liên châu vừa hợp Huyền không ngũ hành là: Tý Dần Thìn Tỵ.
Dụng vào tinh bàn Huyền không:
Như vậy theo Tứ hành liên châu và Huyền không ngũ hành cục trên có 4 hướng hợp để lập hướng khai môn là Tý Dần Thìn Tỵ. Lập tinh bàn vận 8 chính hướng cho 4 hướng trên như sau:
Hướng Tý toạ Ngọ:
473---838---651
562---384---116
927---749---295
Nhận xét: song tinh đáo toạ, hướng đầy hoả, nếu gặp cách toạ không triều mãn có thể dụng cách sơn điên thuỷ đảo: dụng Thành môn hướng tại sơn, dụng thành môn sơn tại hướng mà tốc phát.
Đánh giá: cục không dễ dùng
Hướng Dần toạ Thân:
471---936---258
369---582---714
825---147---693
Nhận xét: tinh bàn thượng sơn hạ thuỷ, sơn tinh phục ngâm toàn bàn. Bàn đắc cách tam ban xảo quái giải được thượng sơn hạ thuỷ nhưng không giải được phục ngâm của sơn tinh. Lại thêm ở hướng có thuỷ nên sơn thần nguy nan. Vì đắc Tam ban, hợp ngũ hành thông khí nên phát tài nhưng khó tránh hao người.
Đánh giá: cục có thuỷ sát người dù phát tài cũng không nên dùng
Hướng Tỵ toạ Hợi:
178---533---351
269---987---715
624---442---896
Nhận xét: tinh bàn được vượng sơn vượng hướng lại thông khí được toàn bàn nên cát tường, tuy vậy do 8 thổ sát 1 thuỷ nên đối với người mệnh thổ không được tốt.
Đánh giá: nên dụng hướng này xây nhà lập hướng, khai môn.
Hướng Thìn toạ Tuất:
876---432---654
765---987---219
321---543---198
Nhận xét: tinh bàn thượng sơn hạ thuỷ, nhìn sơ qua thì rất xấu không dùng được. Tuy nhiên bàn này lại được Liên châu tam ban quái, nhờ hợp Từ hành liên châu và Huyền không ngũ hành nên Liên châu tam ban phát huy tác dụng, giải trừ được thượng sơn hạ thuỷ. Nếu hướng này phía hướng cao hơn phía toạ hoặc phía trước có nhiều nhà cao, phía sau trống không là đất cát lành. Nếu bằng nhau cũng dùng được, nhược bằng hướng thấp hơn toạ thì không nên dùng.
Đánh giá: cục này dùng được, trừ khi phía trước thấp phía sau cao mới phải bỏ mà thôi.
Theo Thẩm thị huyền không nếu hướng Sửu mà cửa rộng để lấn sang cả Cấn là phạm âm dương sai thác, nếu lấn sang Quý là phạm xuất quái. Thực ra cách phân âm dương 24 sơn của Thẩm thị huyền không chỉ là âm dương của thế tinh để phi thuận nghịch khi lập tinh bàn mà thôi HOÀN TOÀN KHÔNG PHẢI ÂM DƯƠNG CỦA SƠN. Sự thực thì Sửu kiêm Cấn là âm kiêm âm, toàn là âm long cả sao lại không được? Sửu kiêm Quý mới là âm dương tương kiêm, khí quẻ hỗn tạp. Nói Sửu kiêm Quý xuất quái là đúng nhưng nói là quái Cấn xuất quái qua Khảm là sai, phải nói là quái Ly xuất quái qua quái Chấn mới là đúng.